Xin phép tác giả được đăng tác phẩm “Chim Hót Trong Bụi Mận Gai “
CHƯƠNG
1
Ngày
8 tháng 12 năm 1915, Meggie Cleary bước vào năm thứ tư của tuổi đời. Dọn dẹp
xong buổi ăn sáng, không nói một lời và hơi đột ngột, mẹ của Meggie đặt lên hai
tay cô một cái hộp gói trong giấy màu hạt dẻ rồi bảo cô bé ra ngoài sân. Nghe lời
mẹ, Meggie ra ngồi ngay trước cửa nhà, sau bụi cây đậu chổi, rồi vội vàng mở
chiếc hộp. Mấy ngón tay cô bé vụng về, hơn nữa, giấy gói rất dày. Nhưng ngay
lúc đó, một mùi thơm thoang thoảng làm Meggie nghĩ đến cửa hàng bách hóa
Wahine. Cô bé đoán ngay rằng, dù bên trong chứa đựng thứ gì đi nữa, chắc chắn
món quà ấy cũng được mua từ cửa hàng bách hóa chứ không phải do ở nhà làm hay
do ai đó đã cho. Mở hết lớp giấy bên ngoài, Meggie nhận ra một cái gì đó thật mịn
và óng ánh ở góc hộp - Cô bé xé toạc ra. - Agnès! Ồ Agnès! - cô bé thì thầm một
cách âu yếm, mắt sáng lên khi nhìn thấy một con búp bê nằm êm ái trong mớ giấy
vụn. Đúng là một phép mầu. Một phép mầu thật. Từ trước đến nay Meggie mới đến cửa
hàng Wahine chỉ một lần thôi, hồi tháng 5 vừa rồi, cô bé được cha mẹ thưởng vì
đã tỏ ra rất ngoan. Lần đó trên chiếc xe bò có mui, cô bé phải hết sức cố gắng
mới ngồi yên được bên cạnh mẹ. Vui quá, Meggie không kịp nhìn thấy gì và cũng
không nhớ gì cả, ngoài Agnès, con búp bê tuyệt đẹp mặc chiếc váy xòe rộng bằng
xa tanh hồng kết ren chung quanh, được đặt trên quầy của cửa hàng bách hóa.
Ngay lúc ấy, Meggie kín đáo đặt tên Agnès cho con búp bê xinh đẹp, cái tên khá
lịch sự mà cô bé biết. Vậy mà nhiều tháng sau, lòng thèm muốn ấy của Meggie
cũng chỉ là mơ ước. Meggie chưa bao giờ có búp bê và không hề tưởng tượng rằng
một bé gái như mình ngày nào đó sẽ có một con búp bê. Lâu nay cô bé thường vui
thích với những thứ đồ chơi mà các anh trai của cô vứt bỏ, chẳng hạn như những
cái còi, cái ná bắn thun và những hình lính xù xì. Làm sao cô dám mơ ước được
chơi với Angès. Tay vuốt nhẹ lên chiếc áo của búp bê, chiếc áo đẹp nhất trong số
những áo mà cô bé thấy phụ nữ thường mặc, Meggie bế nhẹ Angès lên. Tay và chân
của búp bê đều cử động được, cổ và thân mình cũng thế. Màu tóc vàng óng ánh có điểm
những hạt trai, khuôn mặt làm bằng sứ được vẽ rất khéo và đẹp. Mắt búp bê màu
xanh, sinh động đến kinh ngạc. Đôi mắt ấy sáng lên qua hai hàng mi cong vút.
Khi đặt Angès nằm xuống, Meggie khám phá ra rằng búp bê còn biết nhắm mắt lại.
Phía trên gò má cao màu hồng có một nốt ruồi. Hai môi hơi hé ra cho thấy những
chiếc răng màu trắng thật nhỏ. Meggie đặt búp bê trên đầu gối, tìm một chỗ ngồi
êm ái rồi nhìn ngắm một cách say mệ.
Trong
khi Meggie vẫn ngồi như thế thì sau bụi cây đậu chổi, Jack và Hughie đang chơi
đùa bên cạnh đám cỏ mọc cao sát hàng rào. Cả hai nhìn thấy mái tóc màu hung đặc
biệt của Meggie, màu tóc đúng là của dòng họ Cleary, ngoại trừ Frank là có tóc
màu khác. Jack vừa thúc cùi chỏ vào anh mình vừa liến thoắng chỉ Meggiẹ Cả hai
đang chơi trò quân lính truy lùng một thổ dân Maori phản bội. Meggie không để ý
đến hai anh và vẫn đắm nhìn Agnès thân yêu, miệng huýt gió nho nhỏ những âm
thanh quen thuộc. – Meggie, mày đang cầm gì đó? Jack vừa la to vừa nhào tới –
Đưa tao xem. – Ừ, đưa xem. Hughie nói thêm vào, vừa cười khúc khích vừa tìm
cách chặn Meggie không cho chạy thoát. Cô bé ôm chặc búp bê vào ngực và lắc đầu.
– Không, búp bê của em. Món quà sinh nhật của em. – Cứ đưa bọn tao xem. Bọn tao
chỉ muốn xem qua thôi. Trong niềm vui và hãnh diện vừa được mẹ tặng quà, cô bé
đưa búp bê ra khoe: – Các anh xem này, nó đẹp quá. Nó tên Agnès đó. – Agnès?
Agnès? Giọng Jack chế diễu. Tên gì mà tồi thế. Tại sao không gọi nó là Margaret
hay Betty – Không thể gọi khác hơn vì nó là Agnès! Hughie nhìn cánh tay con búp
bê cử động, cậu ta huýt gió và nói: – Jack nhìn xem, tay nó cử động được đấy. –
Cử động làm sao? Đưa tao xem. – Không! Cô bé la lên và lại ôm búp bê sát vào ngực,
nước mắt sắp trào ra. – Không, các anh làm hư búp bê của em… A, Jack, đừng đụng
vào nó, anh sẽ làm gãy búp bê của em mất. Hai bàn tay rám nắng, dơ bẩn của Jack
chụp lên cổ tay Meggie, siết thật mạnh. – Đừng mè nheo nữa, tao mách với anh
Bob bây giờ. Jack siết mạnh hai cổ tay của Meggie, trong khi Hughie túm lấy chiếc
váy của búp bê kéo ra. – Đưa đây – giọng Jack nhỏ nhẹ lại. Nếu không, tao sẽ siết
mạnh đau lắm đó. – Không, không, Jack! Em năn nỉ anh. Anh làm hỏng búp bê bây
giờ. Em van anh để cho nó yên. Đừng lấy của em… Dù hai tay bị siết càng lúc
càng mạnh, cô bé vẫn không chịu buông con búp bê ra. Meggie khóc to lên, chân
đá vào Jack.
–
Đã lấy được rồi! Hughie reo lên đắc thắng khi búp bê vừa vuột khỏi tay Meggie.
Chiếc áo ngoài và bên trong cả chiếc quần lót cũng đều tơi tả. Con búp bê hoàn
toàn trần trụi. Chúng nắm hai chân búp bê kéo ngược ra phía sau, còn cái đầu
chúng quay đủ hướng và không thèm chú ý đến Meggie khóc một mình. Trong gia
đình họ Cleary vẫn thế, ai mà không có khả năng đối phó thì chịu chứ không có
ai hổ trợ hay thương hại. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho cả các cô gái. Từng
chùm tóc vàng của con búp bê bị vứt ra rải đầy dưới đất, còn các hạt trai nhấp
nhánh văng mất trong cỏ, một chiếc giày dơ bẩn vô tình dẫm lên chiếc váy nằm
trên đất. Meggie quỳ gối xuống, hai tay run rẩy lượm lại những mảnh áo quần bé
nhỏ của búp bê, rồi mò mẫn trong đám cỏ mong tìm lại những hạt trai. Nước mắt
làm cho cô bé không còn nhìn thấy gì nữa, trái tim đau nhói một cách lạ lùng,
vì rằng từ trước đến nay, chưa bao giờ cô bé lại cảm nhận một điều gì đó có thể
gọi là đau đớn.
CHƯƠNG
2
rank
nhúng thanh sắt đỏ vào nước lạnh gây nên một tiếng xèo, rồi đứng thẳng người
lên. Anh không còn đau lưng nữa. Có lẽ vì đã quen công việc ở lò rèn. Chỉ cần
sáu tháng thôi – cha anh nói như thế. Nhưng Frank hiểu là biết bao nhiêu năm
tháng trôi qua từ khi anh làm quen với nơi đây; anh đã đếm thời gian trong oán
giận và hận thù. Quẳng chiếc búa vào thùng, bàn tay run run, Frank vuốt ngược
mái tóc phủ kín vầng trán rồi cởi tấm tạp đề cũ mèm bằng da. Chiếc áo sơ mi nằm
chờ Frank trên đống rơm, anh bước đi nặng nề, dừng lại một lúc và ánh mắt mất
hút qua một khe hở của nhà kho. Mắt anh đen, mở trừng trừng nhìn về hướng ấy.
Dáng người hơi thấp nhỏ, khoảng một thước sáu mươi, Frank gầy như những đứa con
trai đang lớn, nhưng vai và tay trần của anh đều gân guốc vì cầm búa lâu ngày.
Nước da hơi xanh, mịn, bóng loáng mồ hôi. Tóc và cặp mắt đen lánh có cái gì đó
xa lạ vì rằng đôi môi dày và cái mũi thô thẳng không phảng phất chút nào những
nét chung nhất của gia đình này. Ở mẹ và Frank hình như có dòng máu Maori. Frank
gần 16 tuổi, Bob 11, Jack 10, Hughie 9, Stuart 5 và cô bé Meggie… Frank nhớ
ra hôm nay ngày 8 tháng 12 Meggie vừa tròn 4 tuổi. Anh mặc áo vào và rời nhà
kho. Căn nhà của gia đình Cleary nằm trên một ngọn đồi cao hơn nhà kho và chuồng
ngựa chừng ba mươi mét. Hầu hết nhà cửa ở Tây Tây Lan được xây bằng gỗ, không
có lầu, dài và rộng để khi có động đất thì không bị sập tất cả. Chung quanh nhà
mọc đầy những cây đậu chổi, mùa này trĩu nặng những bông vàng; cỏ mọc bao la,
xanh rì như phần nhiều các đồng cỏ nuôi súc vật. Ngay giữa mùa đông, có những mảng
tuyết suốt cả ngày không tan vì rợp bóng mát, cỏ vẫn không vàng úa. Rồi mùa hè
dài và dịu dàng mang trả lại cho thiên nhiên một màu xanh đậm. Mưa cũng không
quá nặng hạt để có thể làm gã cả những loài cây mảnh khảnh nhất. Tai họa ở Tây
Tây Lan gầm lên từ trong lòng đất chứ không bao giờ sa xuống từ trên trời. Bao
giờ cũng thế, con người sống ở nơi đây như luôn ở trong một đợi chờ thấp thỏm
trước sự chuyển động, tưởng chừng nghe thấy dưới chân mình những tiếng âm thanh
không ngớt vang dội từ lòng đất. Vì rằng bên trong lòng đất ẩn chứa một sức mạnh
kinh hoàng, một sức mạnh có biên độ dữ dội đến đỗi cách đấy ba mươi năm, một quả
núi nguyên vẹn đã bị xóa mất hoàn toàn. Dù thế, đất ở đây thật hiền hòa, hiếu
khách. Từ nhà nhìn ra xa là một cánh đồng xanh như màu ngọc bích trên chiếc nhẫn
đính hôn của Fiona Cleary. Đường viền của các ngọn đồi vẽ lên nền trời màu xanh
nhạt; ngọn núi Egmont cao ba ngàn mét như muốn đâm thủng các tầng mây. Sườn F
núi
hai bên khoác màu trắng của tuyết hết sức cân đối khiến cho Frank vội vã vì anh
nhớ lời cha dặn không được rời bỏ lò rèn. Lệnh của cha anh lúc nào cũng nghiêm
khắc. Đi vòng vào nhà, Frank bắt gặp mấy đứa em. Chính Frank đã đưa mẹ đi
Wahine để mua búp bê cho Meggie, tuy nhiên anh đã phải tự hỏi điều gì đã phải
thúc đẩy mẹ anh chịu tiêu xài như thế. Với mẹ, một món quà sinh nhật phải là một
thứ gì có ích lợi cho cuộc sống hiện tại; gia đình không dư dả tiền để phung
phí. Không bao giờ mẹ anh mua đồ chơi cho bất cứ ai để làm quà sinh nhật. Các
con của bà nhân ngày này đều nhận được quần áo. Ngày sinh nhật hoặc Noel là dịp
để sắm thêm món gì đó cho tủ áo quần còn rất trống trải. Có lẽ mẹ đã bắt gặp
cái nhìn thèm muốn của Meggie trong lần ra tỉnh. Khi Frank hỏi mẹ về quyết định
bất thường này, bà chỉ nói đôi ba câu về niềm mong ước của mấy cô bé có được
con búp bê, rồi bà chuyển sang đề tài khác. Giữa lối đi, Jack và Hughie đang giằng
co, cả hai đứa đang nắm tay chân con búp bê một cách thô bạo. Frank chỉ nhìn thấy
Meggie từ phía sau lưng, cô bé đang đứng như trời trồng nhìn hai anh mình dằn vặt
Agnès. – Đồ qui? sứ, bẩn thỉu. Frank quát. Jack và Hughie nhanh chân, biến ngay
và bỏ lại con búp bệ Khi Frank nổi nóng thì khôn hồn bỏ đi nơi khác. – Tao mà bắt
gặp tụi bây rớ vào con búp bê lần nữa, thì tụi bây lảnh ngay một thanh sắt đỏ
vào mông, đồ thối tha! Frank hét lên. Frank khom người xuống, hai tay đặt lên
vai Meggie lay nhẹ. – Thôi! thôi! có gì đâu mà khóc! Đừng sợ. Tụi nó bỏ đi hết
rồi và không bao giờ dám sờ vào con búp bê của em đâu. Anh hứa với em mà. Bây
giờ em hãy tặng cho anh một nụ cười sinh nhật đi nào… Mặt cô bé như sưng, mí
mắt phồng lên. Cô nhìn Frank trân trân bằng đôi mắt nâu, mở to, chứa đầy bi kịch
vừa xảy ra và cô bé không nói nên lời. Frank lấy từ trong túi quần một chiếc
khăn bẩn, lau mặt em gái một cách vụng về, rồi đặt khăn lên mũi bảo: – Hỉ mũi
đi cưng. Cô bé nghe lời, hết khóc nhưng tiếng nấc vẫn chưa dứt. – Frank – Frank
– Frank! Mấy ảnh… đã lấy… Agnès của em! Tóc của Agnès bị rứt ra hết rồi và
bị mất cả những hạt trai xinh đẹp. Frank, mấy hạt trai đó rơi trong cỏ đây
nè… nhưng em tìm không ra.
Rồi
cô bé lại khóc. Giọt nước mắt rơi xuống tay Frank. Anh đưa tay lên nhìn và lấy
lưỡi liếm. – Bây giờ phải tìm lại mấy hạt trai. Nhưng em sẽ không tìm thấy nếu
cứ khóc mãi. Còn chuyện này nữa, sao em vẫn ngọng nghịu như một em bé mới biết
nói? Hỉ mũi nữa đi và nhặt Agnès tội nghiệp của em lên. Nếu em không mặc ngay
quần áo vào cho nó, nó sẽ bị cảm nắng bây giờ. Frank đặt Meggie ngồi xuống bên
lối đi rồi dịu dàng trao cho cô bé cho búp bệ Xong cậu ta vẹt cỏ đi tìm hạt
trai, không mấy chốc vừa reo lên một cách đắc thắng vừa giơ cao cho Meggie xem
hạt trai mới tìm được. – Đây mới chỉ là hạt thứ nhất. Em chờ xem hai anh em
mình sẽ tìm lại đủ tất cả. Meggie nhìn người anh cả của mình bằng đôi mắt ngưởng
mộ trong khi Frank tiếp tục vẹt cỏ, thỉnh thoảng đưa lên cao khoe một hạt trai
vừa tìm được. Bây giờ Meggie bỗng nhớ lại làn da của Agnès rất mỏnh dễ bị ánh mặt
trời thiêu đốt, thế là cô bé chăm chú lo mặc quần áo lại cho búp bê. Thật ra
búp bê cũng không mang một vết thương nào đáng kể, tóc chỉ rối lên, tay chân dơ
bẩn nhưng vẫn cử động được bình thường. Trên mái tóc của Meggie ở mỗi bên có
chiếc lược cài, cô bé lấy xuống một cái để chải tóc cho búp bê. Vụng về, cô bé
làm một chiếc nơ lớn trên đầu của Agnès bung ra. Thảm kịch. Tất cả tóc tai
Agnès đều sút hết và dính trên chiếc lược cài. Phía trên cái trán rộng của búp
bê chẳng có gì khác. Không có đầu, không có xương sọ Chỉ có một lỗ trống tác
hoác. Meggie run rẩy gần như hoảng hốt, nhưng mắt vẫn nhìn vào phía trong lỗ trống.
Những đường nét lồi lõm của mắt, mũi, miệng nhìn từ bên trong thật khiếp đảm,
nhất là hai con mắt của Agnès chỉ là hai lỗ sâu hoắm, có một sợi dây kẽm xuyên
qua… Tiếng hét chát chúa của Meggie không phải là tiếng hét của trẻ thơ.
Meggie quăng Agnès xuống đất rồi tiếp tục la, hai tay ôm mặt, run rẩy. Frank đến
gỡ các ngón tay của Meggie rồi bế em gái vào lòng, đặt đầu cô bé vào chỗ êm ả
nhất giữa cổ và vai mình. Cô bé càng thu mình sát vào Frank, tìm kiếm nơi người
an niềm an ủi, cho đến lúc cơn xúc động giảm xuống, cô bé mới ngửi thấy cái mùi
dể chịu từ thân người của Frank, đó là mùi ngựa, mùi mồ hôi và sắt nung đỏ. Khi
Meggie yên lòng trở lại, Frank hỏi em gái của mình nguyên do của sự hoảng hốt.
Anh ta nhặt búp bê lên và đau xót nhìn thấy cái đầu trống rỗng và cố nhớ xem
trong cái thế giới tuổi thơ của mình có bao giờ xảy ra nổi khiếp sợ lạ lùng như
thế không. Anh nhớ lại hình ảnh đáng ghét lởn vởn như những bóng ma, những tiếng
nói xì xào và những cái nhìn ghét bỏ. Còn gương mặt của mẹ nhăn nhó, khắc khổ,
bàn tay của mẹ run rẩy nắm chặt lấy tay mình, người căng thẳng.
Còn
Meggie đã thấy gì mà hoảng sợ như thế? Anh biết rằng Meggie sẽ ít hoảng hốt hơn
nếu Agnès đáng thương bị chảy máu khi tóc bị rứt ra. Dù cho máu có thật. Vì rằng
trong gia đình họ Cleary không có tuần nào là tránh được chuyện người này hay
người nọ bị đổ máu. Meggie nói thật nhỏ: – Em sợ hai con mắt của nó – Trong khi
nói, Meggie không dám nhìn con búp bê. – Không Meggie, đừng sợ, nó đẹp tuyệt, một
kỳ quan. Frank cúi mặt vào mái tóc của em gái – mái tóc đẹp, dày và sáng rực.
Phải mất nửa tiếng đồng hồ vỗ về, Frank mới thuyết phục được Meggie chịu quay lưng
lại nhìn Agnès và thêm một khoảng thời gian như thế để dám nhìn thẳng vào cái lỗ
trống trên đầu búp bệ Frank chỉ cho em xem hai con mắt của búp bê động đậy như
thế nào, bằng cách nào mà hai mắt mở ra và khép lại. – Thôi bây giờ đã đến lúc
anh em mình phải vào nhà. Frank bế Meggie bằng một cánh tay, con búp bê đặt giữa
ngực Frank và ngực Meggie. Mình sẽ nhờ mẹ chữa lại con búp bê. Mẹ sẽ giặt, ủi lại
quần áo cho nó và tìm cách dán lại bộ tóc. Còn anh sẽ đính lại hạt trai bằng những
cây kim găm, chắc chắn sẽ không bao giờ bị rơi ra nữa, mặc tình cho em muốn chải
kiểu tóc nào cho nó cũng được. Fiona Cleary đang ở trong bếp gọt khoai. Đó là một
người đàn bà có nước da hơi nhợt nhạt, người thấp, nhưng gương mặt khá nghiêm
và cứng rắn. Bà có một dáng đẹp, một thân hình mảnh khảnh dù đã sáu lần sinh.
Chiếc áo dài vải trúc bâu gần chấm đất, thật sạch; một chiếc tạp dề lớn màu trắng,
hồ cứng, phía trên được buộc quanh cổ, phía dưới ôm thân người và cột lại bằng
một cái nơ thắt sau lưng thật gọn và đẹp. Từ sáng đến chiếu tối, bà ở trong bếp
và ở khu vườn phía sau nhà; đôi giày ống ngắn màu đen rất bẩn của bà chỉ có một
con đường quen thuộc lui tới bếp đến chỗ giặt quần áo, từ vườn ra đến sào phơi
quần áo rồi quay trở lại bếp. Bà đặt con dao lên bàn, nhìn Frank và Meggie; môi
bà bỗng mím lại: – Meggie, mẹ chỉ cho phép con mặc chiếc áo đẹp nhất vào ngày
chủ nhật với một điều kiện: con không làm bẩn. Bây giờ con nhìn xem ra cái thứ
gì. Đúng là một đứa trẻ dơ dáy. – Mẹ ơi, không phải lỗi của Meggie đâu – Frank
bào chữa. Chính Jack và Hughie đã giành lấy búp bê của Meggie để xem tay chân cử
động như thế nào. Con có hứa với Meggie là mẹ và con sẽ chữa lại con búp bê.
Làm được phải không mẹ? – Con đưa mẹ xem – Fiona vừa nói vừa đưa tay ra. Bà là
một người lặng lẽ, ít nói, và có vẻ như sống không được tự nhiên. Những gì
trong đầu bà khó ai đoán biết, ngay cả chồng bà. Bà nhường quyền giáo dục các
con cho chồng và tuân thủ các mệnh lệnh của chồng mà không có
một
phản ứng hay than phiền nào, ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt.
Meggie nghe các anh mình nói nhỏ với nhau rằng mẹ cũng sợ ba như chúng và nếu
thật thế thì mẹ đã giấu giếm cái sợ ấy dưới một lớp ngoài bình thản. Trên nét mặt
ấy cũng tỏ ra một chút bướng bỉnh. Bà không bao giờ cười, cũng như không bao giờ
nổi giận. Fiona đặt con búp bê lên cái kệ gần bếp và nhìn Meggie: – Sáng mai mẹ
sẽ giặt quần áo cho Agnès và sẽ chải tóc lại. Sau buổi ăn chiều nay, anh con sẽ
dán tóc và không chừng phải tắm cho nó sạch sẽ. Meggie tỏ ra bằng lòng, nụ cười
trên môi. Đôi lúc Meggie rất thèm được nghe tiếng cười của mẹ nhưng điều đó lại
không bao giờ có được. Meggie cảm giác rằng mình đang chia xẻ với mẹ một điều
gì đó rất đặc biệt mà cha cô và các anh không thể hiểu; thế mà cô bé vẫn không
thể nào khám phá những gì chứa đựng bên trong con người mà Meggie hết lòng yêu
thương. Ngoài Frank, không một đứa con trong gia đình này hiểu được rằng Fiona
luôn ở trong tâm trạng mệt mỏi, sự mệt mỏi không dễ gì vơi bớt. Có quá nhiều việc
phải làm nhưng lại không có dư tiền và không đủ thìgiờ giải quyết. Bà chỉ trông
cậy vào đôi taỵ Ngay bây giờ cô bé cũng đã giúp mẹ một số công việc vặt mãnh nhưng
với bốn tuổi đầu, Meggie chưa đủ sức làm nhẹ bớt gánh nặng của bà. Sáu đứa con
trai, chỉ có một đứa con gái, lại là con út. Những ai quen biết gia đình này đều
thương hại bà nhưng điều ấy đâu có làm thay đổi được gì. Cái giỏ đựng đồ cần vá
lại đầy những chiếc vớ chưa được mạng, có cả que đang dính vào một chiếc vớ
khác đang dở dang. Hughie đã cao nhòng không còn mặc được những cái áo xănđai
cũ; với Jack thì lại không đủ lớn để mặc áo của anh.
CHƯƠNG
3
adraic
Cleary – tức Pađy – có mặt ở nhà trong tuần lễ sinh nhật của Meggie là chuyện
hoàn toàn tình cờ. Mùa cắt long cừu chưa đến, ông tạm làm việc gần nhà, làm đất
và trồng trọt. Pađy chuyên nghề cắt lông cừu, làm thời vụ từ giữa mùa hè đến hết
mùa đông, sau đó là thời gian cừu đẻ. Thông thường Pađy tìm đủ việc làm để chịu
đựng qua mùa xuân và những tháng đầu mùa hè; ông phụ lo cho cừu đẻ, cày đất, vắt
sữa bò, hai lần mỗi ngày ở trang trại kế bên. ông sẵn sàng đi đến bất cứ đâu miễn
có việc làm, để mặc gia đình sống trong căn nhà tuy lớn nhưng có vẻ cổ xưa, một
mình vợ phải tự lo liệu các thứ. ông không thể làm khác hơn vì không có đất đai
riêng. Mỗi ngày Pađy về nhà lúc mặt trời khuất bóng, đèn đã đốt lên, in rõ những
cái bóng đen nhảy múa trên trần. Tập hợp ở mái hiên nhà sau, mấy đứa con trai
chơi đùa với một con ếch, ngoại trừ Frank. Padraic dư biết con trai lớn của ông
hiện giờ ở đâu. ông nghe rõ tiếng bửa củi đều đặn. ông dừng lại ở hiên nhà, đá
vào mông Jack một cái và đưa tay xoa đầu Bob một cách thương yêu: – Ra phụ
Frank chẻ củi, đồ làm biếng. Ráng làm xong trước khi mẹ đặt bàn, bằng không tao
sẽ cho một trận nên thân. Padraic ra hiệu bằng đầu hướng về Fiona đang bận rộn
bên cái chảo; ông không bao giờ ôm hôn vợ trước mặt con cái. Những biểu hiện
tình cảm ấy theo ông nên giới hạn trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Ông cởi đôi
ủng dính đầy bùn; Meggie mang đến cho cha một đôi dép. Ông nở nụ cười đón lấy.
Trong lòng luôn tràn ngập một tình cảm rất lạ như bị chinh phục mỗi khi nhìn thấy
Meggie con gái mình. Nó xinh quá, tóc đẹp làm sao; ông cầm một loạn tóc lay nhẹ
rồi thả xuống, thích thú nhìn con. Ông nhấc bổng Meggie lên rồi hai cha con
cùng ngả xuống chiếc ghế bành êm ái đặt ở trong nhà bếp, đó là chiếc ghế bành
thời Windsor, có lót gối dựa. Meggie nằm gọn trong lòng cha, hai tay bá vào cổ,
gương mặt tươi tắn ngước lên hy vọng được đùa giỡn với trò chơi buổi tối – nhìn
ánh sáng xuyên qua những sợi râu ngắn màu vàng của chạ – Em có thấy khỏe không
Fiona? – Pađy hỏi thăm vợ. – Bình thường thôi anh ạ. Còn anh đã làm xong cái
hàng rào dưới kia chưa? – Xong rồi. Anh có thể bắt tay làm hàng rào phía trên
vào sáng mai. Nhưng lạy chúa, anh mệt quá. – Em cũng thấy anh mệt… Roberson
còn giao cho anh con ngựa cá tính bất thường nữa phải không? P
–
Vẫn thế – Chẳng lẽ em nghĩ rằng hắn sẽ làm việc với con ngựa tồi ấy và dành cho
anh một con ngựa tốt hơn sao? Tay anh rã rời cả. Hình như con ngựa cái này thuộc
loại cứng đầu nhất ở Tân Tây Lan. – Không quan trọng. Mấy con ngựa của ông già
Roberson đều thuần cả. Sắp tới anh sẽ làm với lão phải không? – Chưa làm ngay
đâu. Ông nhồi thuốc loại rẻ tiền vào cái tẩu rồi lấy một que củi mồi lửa từ
trong lò đang cháy đỏ. Sau đó ông lại ngả người lên ghế bành, rít mạnh một hơi.
– Con gái nói cho ba nghe con thấy thế nào khi được bốn tuổi – Pađy hỏi con. –
Con thấy thích lắm ba ơi. – Mẹ có cho con quà không? – Tại sao ba và mẹ biết được
Agnès mà chọn cho con? – Agnès? (ông liếc nhìn qua Fiona, vừa mỉm cười vừa nhíu
mày dò vợ). Có phải tên của nó là Agnès? – Dạ, Nó đẹp tuyệt ba ạ. Con muốn nhìn
nó suốt ngày. – Rất may là còn lại cái gì đó để nhìn – Fiona nói bằng giọng hơi
cằn nhằn. Jack và Hughie đã đoạt con búp bê trước khi Meggie có thời giờ nhìn
ngắm. – Hừ! Lại chuyện khỉ của mấy thằng con trai, phải trị chúng. Con búp bê
con có hỏng nhiều hông? – Không đến nỗi. Frank đã bắt gặp hai đứa kịp lúc. –
Frank? Làm sao nó lại có mặt ở đó? Nó phải ở dưới lò rèn suốt ngày kia mà.
Humter chờ nó làm xong cái cánh cửa nhỏ. – Đúng là nó ở lò rèn suốt ngày –
Fiona trả lời ngaỵ Nó chỉ lên nhà thoáng một cái để lấy cái gì đó cần cho công
việc. Pađy quả rất khắc nghiệt với Frank. – Ba ơi! Anh Frank dễ thương lắm.
Không có anh ấy, Agnès đã chết rồi… Sau bữa cơm, anh Frank sẽ dán lại tóc
trên đầu con búp bê cho con. – Vậy thì tốt. Pađy nói lầm nhầm bằng một giọng mỏi
mệt. Mấy đứa con của ông đều có tóc màu hung dày và lượn sóng, tuy vậy không có
đứa nào màu tóc lại rực sáng dữ dội như ông. Pađy thấp người, chắc như thép,
chân vòng kiềng do cả đời ngồi trên lưng ngựa, hai cánh tay dài ra sau những
năm làm công việc cắt lông cừu; ngực và hai cánh tay che phủ bởi một lớp lông
màu vàng. Đôi mắt màu xanh và thường nheo lại như người thủy
thủ
hướng tầm nhìn ra xa. Gương mặt ông không có gì là kiểu cách lại dễ gây cảm
tình. Mũi tuyệt đẹp, đúng là mũi rômanh, khiến cho những người đồng hương ái
Nhĩ Lan của ông phải ghen tức. Ông vẫn còn giữ được giọng nói dịu dàng của vùng
Galway, nhưng sau hai mươi năm sống ở miền đất xa xôi này ông không còn nói
năng nhanh nhẩu như xưa, giống như một cái đồng hồ treo tường cũ kỹ cần được
lên dây lại. Một người hạnh phúc vì đã thành công trong cuộc sống lao động gay
go vẫn xứng đáng hơn nhiều người khác và mặc dù cai quản cằn nhà này bằng một
thứ kỷ luật sắt, ông vẫn được con cái yêu thương, ngoại trừ một đứa. Nếu không
đủ bánh mì cho mọi người, ông nhịn ăn; nếu phải chọn lựa giữa quần áo mới cho bản
thân hay cho một đứa con nào đó, ông bằng lòng mặc quần áo cũ. Theo cách của
ông, đó là một bằng chứng biểu thị tình thương dành cho con, cụ thể hơn hàng biết
bao nhiều cái hôn dễ dàng ban phát. Ông dễ nóng giận và đã từng giết người. Nhưng
sự may mắn đã nghiêng về phía ông hôm đó; nạn nhân là một người Anh chủ nhân
chiếc tàu đậu ở cảng Dun Lacghaize. Fiona xuất hiện ở ngưỡng cửa sau và nói lớn:
– Vào bàn ăn. Mấy cậu con trai lần lượt bước vào; người cuối cùng là Frank, tay
ôm bó củi đến đặt vào chiếc thùng bên cạnh lò sưởi. Pađy để Meggie đứng xuống rồi
đến ngồi ở đầu bàn. Riêng Meggie ngồi trên một cái thùng gỗ đặt bên cạnh cha.
Fiona chia thức ăn vào dĩa một cách nhanh và gọn như một người phục vụ chuyên nghiệp,
rồi mang mỗi lượt hai dĩa cho gia đình, trước hết cho Pađy rồi đến Frank, người
sau cùng là Meggie. Bà lo cho mình khi mọi người đã có phần. – Lại cái món ragu
chán chết! Stuart cằn nhằn; hai tay cầm dao và nĩa nhưng mặt mày nhăn nhó. – Ăn
đi! Pađy ra lệnh. Fiona cũng ngồi vào bàn và nuốt nhanh phần ăn của mình. Rồi
bà đứng lên đặt đầy bánh vào những cái dĩa mới. Đó là những bánh bích qui do bà
làm, bên trên rưới đường, mứt và một loại kem. Cũng chính bà mang một lượt hai
dĩa lên bàn. Khi xong đâu đấy rồi, Fiona mới ngồi thở và bắt đầu ăn phần tráng
miệng không có gì vội vã. – Ngon quá! Meggie la to lên. Bánh ngon quá! Cô bé cắm
sâu chiếc muỗng qua lớp kem. – Bữa ăn này là mừng sinh nhật của con đó Meggie –
Pađy vui vẻ nói – Do đó mẹ đã làm món tráng miệng mà con thích nhất. Sau đó
Fiona mang ra một chiếc ấm thật lớn rồi rót cho mỗi người một tách trà bốc hơi.
Cả gia đình ngồi lại ở bàn nói chuyện, uống trà hoặc đọc sách khoảng một tiếng
đồng hồ nữa. Pađy
ngậm
ống vố, đầu nghiêng xuống đọc quyển sách vừa mượn của thư viện lưu động. Fiona
cứ lo châm đầy trà vào mấy chiếc tách trong khi Bob cũng đọc. Những đứa con
khác nhỏ hơn chuẩn bị cho thời khóa biểu ngày mai. Nhà trường đã trả học sinh về
trong dịp nghỉ hè; các cậu con trai được tự do tỏ ra rất hăng hái đảm nhận công
việc được giao. Bob sơn phết lại bên ngoài căn nhà, chỉ những nơi cần thiết;
Jack và Hughie đi kiếm gỗ về để làm củi, chăm sóc những phần phụ thuộc của nhà
và vắt sửa; Stuart trồng rau. Thỉnh thoảng Pađy ngưng đọc sách ngẩng đầu lên để
bổ sung thêm cho ai đó một công việc. Phần Fiona thì chẳng nói một lời, còn
Frank ngồi im trên ghế uống hết tách trà này sang tách trà khác. Cuối cùng
Fiona đưa mắt ra hiệu gọi Meggie đến ngồi trên một cái ghế cao, bà chải tóc cho
con gái, rồi bảo Meggie đi ngủ, cùng lúc với Stuart và Hughiẹ Jack và Bob xin
đi ra ngoài cho chó ăn; Frank đặt con búp bê trên tấm ván kê làm bàn viết và bắt
đầu dán lại tóc cho nó. Pađy vươn vai, gấp sách lại rồi đặt cái ống vố trên chiếc
ghế vỏ ốc lớn được dùng làm gạt tàn thuốc. – Thôi, tôi đi ngủ nha mẹ chúng nó.
– Chúc anh ngủ ngon, Pađy. Fiona dọn dẹp thật nhanh, chén dĩa mang ra sau bếp rồi
bắt đầu ngồi rửa. Frank vùi đầu vào việc sửa con búp bê. Nhưng khi liếc nhìn chồng
dĩa cao ngất, cậu ta bật dậy và không nói một lời đi lấy nùi giẻ phụ mẹ. Frank
biết rằng nếu bị cha mình bắt gặp thì ông không tha đâu. Ông phân công rất dứt
khoát: đàn ông con trai không được rớ vào công việc của đàn bà. Biết thế, nhưng
Frank vẫn chờ cha mình vừa đi nghỉ là bắt tay vào phụ mẹ. Fiona trìu mến nhìn
con trai lớn: – Frank à, không có con mẹ không biết sẽ xoay sở ra sao. Nhưng
đáng lý con không nên nhúng tay vào. Sáng mai con sẽ mệt… – Mẹ đừng lo. Rửa
vài cái dĩa chẳng hao tốn bao nhiêu sức. Giúp mẹ đỡ mệt một chút đâu phải là
chuyện lớn. – Công việc này là của mẹ, và chẳng có gì vất vả đâu Frank ạ. – Con
mong ngày nào đó nhà mình giàu có để có thể mướn thêm người phụ mẹ. – Con đừng
mơ chuyện hão huyền. Với tay lấy miếng giẻ, bà lau hai bàn tay ửng đỏ đầy xà
phòng. Khi nhìn Frank, trong đôi mắt của bà chứa đựng một nỗi âu lo mông lung.
Bà đoán ra sự bất mãn của con và nỗi cay đắng vượt qua mức độ nổi loạn bình thường
của một người lao động với số phận của mình.
–
Frank, con không nên có những ước muốn điên rồ. Nó chỉ gây phiền lụy cho con.
Chúng ta thuộc tầng lớp cùng cực có nghĩa là chẳng bao giờ giàu và cũng không
có đầy tớ đâu con ạ. Con hãy bằng lòng với chính con và những gì con có. Khi
con nói ra những chuyện như thế con đã làm nhục cha con đó. Ông không uống rượu,
không chơi bời, ngượi lại làm việc rất cực nhọc vì chúng ta. Ông không giữ
riêng một xu cho ông, tất cả cho chúng ta đấy thôi. Đôi vai gân guốc của Frank
nhúm lại, nét mặt sa sầm xuống: – Mẹ ạ, nhưng tại sao muốn thoát khỏi số phần của
mình lại bị trách cứ? Con không thấy điều gì xấu nếu con mong cho mẹ có được một
người giúp việc để mẹ bớt cực. – Điều đó chưa phải tốt đâu con, vì nó không xảy
ra như thế! Con biết gia đình mình không đủ tiền để lo cho con học tiếp và khi
con không tiếp tục đến trường thì làm thế nào con có thể tránh được cái số phận
của một người lao động cực nhọc… Giọng nói, cách ăn mặc, hai bàn tay chai của
con đã cho thấy con phải lao động mới nuôi sống được mình. Không có gì là nhục
khi có hai bàn tay chai. Cũng như cha con thường nói: khi có một người có hai bàn
tay như thế thì ai cũng biết ngay đó là một người lương thiện. Frank nhún vai
không nói. Anh đứng dậy đặt con búp bê bằng sứ trên đầu tủ buýp phê, phía sau hộp
bánh bích quỵ Anh không sợ mấy thằng em trai có những hành động phá hoại lần thứ
hai; chúng ngán Frank nổi giận hơn là cha vì rằng bản chất của Frank có một
chút hung dữ. Nhưng cái tính xấu ấy không bao giờ Frank lộ ra khi anh ở bên cạnh
mẹ hay cô em gái Meggie. Fiona nhìn Frank mà lòng đau nhói; dường như ở Frank
có cái gì đó cô đơn và tuyệt vọng và biết bao nhiều điều băn khoăn vây hãm. Phải
chi Pađy và Frank hòa thuận! Nhưng cả hai đều không nhìn mọi sự việc dưới con mắt
giống nhau. Họ hục hặc nhau thường xuyên. Ngoại trừ một lần được đi chơi ở
Wahine cách đây tám tháng. Meggie chưa bao giờ đi xa hơn nhà kho và cái lò rèn ở
dưới thung lũng. Cho nên sáng đầu tiên Meggie đi học ở trường, cô bị căng thẳng
đến đỗi nôn ra ngoài những gì đã ăn sáng. Thế là Meggie được bế về phòng ngủ, tắm
rửa sạch sẽ và thay một bộ đồ khác. Bộ quần áo mới màu xanh đậm với cổ màu trắng
theo kiểu lính thủy, được thay bằng một cái áo choàng màu nâu xấu xí với hàng
nút cài trên cổ rất cao, khiến Meggie có cảm giác như bị nghẹt thở. Bob, Jack,
Hughie và Stuart vừa chạy vừa nhảy cò cò đã ra tới ngoài cổng. Lúc đó Fiona mới
lo xong cho Meggie, bà thúc hối con gái mang theo thức ăn sáng, bánh mì
xăng-uých phết mứt, bỏ vào chiếc cặp cũ.
–
Mau lên Meggie, mọi người trễ hết đấy. Bob ra đến đường quay đầu lại la lớn.
Meggie chạy theo mấy anh đang khuất dần xa xa. Từ nhà của họ Cleary đến thị trến
Wahine khoảng chừng tám cây số. Meggie nhìn cột cây số chỉ đường mà chân tay rụng
rời. Tai của Bob lắng nghe tiếng chuông trường đã đổ chưa, còn mắt thì liếc
sang Meggie đầy băn khoăn; cô bé đi bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại thở ra
mệt nhọc. Dưới mái tóc dày màu hung, gương mặt đỏ hồng của Meggie bỗng trở nên
nhợt nhạt. Bob giao chiếc cặp của mình cho Jack rồi đến bên em gái: – Meggie,
em ngồi lên lưng anh, anh cõng em đi cho nhanh. Bây giờ thì Meggie có thể khám
phá Wahine trong tư thế thoải mái. Wahine chẳng có gì nhiều để xem. Không rộn rịp
bằng một thị trấn lớn, nhà cửa trải đều hai bên con đường chính tráng nhựa.
Khách sạn là tòa nhà đáng chú ý nhất cũng chỉ có một tầng với một tấm lợp bằng
vải chịu trên hai cây trụ nhô ra sát đường để che nắng. Cửa hàng bách hóa là
nơi đáng chú ý kế đó. Thị trấn chưa có một nhà chứa xe, ô tô ở đây còn rất hiếm.
Trường học và Nhà thờ Anh quốc giáo đang được xây kế bên nhau, đối diện với nhà
thờ Thánh Tâm và trường của giáo xứ. Khi anh em Cleary đi ngang cửa hàng bách
hóa thì chuông trường của giáo xứ vừa đổ, sau đó là chuông trường của thị trấn.
Họ bước nhanh hơn vào sân trường kịp lúc năm mươi học sinh khác bắt đầu xếp
hàng trước một nữ tu thấp người, tay cầm một cây roi mây dài. Đó là xơ Agatha.
Không bị lôi cuốn bởi những tiếng cười đùa khúc khích của đám học sinh, Bob và
các em mình đứng nghiêm trang rồi lần lượt đi theo hàng vào lớp trong tiếng hát
Niềm tin của các Thánh Tổ phụ của chúng ta, xơ Catherine đệm dương cầm. Khi học
sinh cuối cùng vào lớp, xơ Agatha mới rời khỏi vị trí của mình. Bà đi thẳng đến
anh em Cleary. Meggia chưa bao giờ được nhìn thấy một nữ tu, nên miệng há hốc
ra. – Này Robert Cleary, tại sao em đi trễ? Giọng nói của xơ Agatha khô khan như
hét lên. – Thưa dì, con xin lỗi – Bob trả lời vụng về, mắt dán chặt vào cây roi
mây đung đưa sau lưng xơ Agatha. – Tại sao các em đi trễ? Bà hỏi gặng lần nữa.
– Con xin lỗi xơ – Hôm nay là ngày tựu trường, Robert Cleary; tôi nghĩ rằng vào
một dịp như thế, các em phải ráng đi học đúng giờ chứ? Meggie run sợ, tập trung
can đảm rồi lên tiếng:
–
Thưa xơ, đó là lỗi của con – Tiếng nói nhỏ như thì thầm và tắt nghẽn trong cổ.
Cặp mắt màu xanh đầy đe dọa rời khỏi Bob, chuyển sang hướng Meggie tưởng như
xuyên thủng vào tận tim cô bé, trong khi đó Meggie vẫn hồn nhiên giương đôi mắt
nhìn vị nữ tu, hoàn toàn không ý thức rằng mình vừa phạm một sơ hở. – Tại sao lại
lỗi của cô? – Vị nữ tu hỏi Meggie bằng một giọng lạnh lùng chưa bao giờ Meggie
được nghe. – Dạ thưa, con nôn ra đầy bàn, làm lấm cả quần áo. Mẹ con phải lau rửa
và thay quần áo khác cho con, do đó chúng con bị trễ – Meggie giải thích một
cách vụng về. Nét mặt của xơ Agatha không hề thay đổi nhưng miệng mím chặt lại
như một cái lò xo bị căng ra quá sức, còn đầu ngọn roi thì hạ thấp xuống vài centimét.
– Chuyện gì thế? Bà hỏi Bob như nói với một loại sâu bọ vô cùng kinh tởm như chưa
từng có trong danh mục khoa hoc. – Xin xơ tha lỗi cho. Đây là Meghann, em gái của
con. – Nghe đây nhé, phải cho cô em gái của cậu biết có những chuyện mà những
người có lễ giáo không bao giờ nói đến. Trong mọi trường hợp, chúng ta không đề
cập đến bất cứ một món quần áo lót nào. Không bao giờ và không bao giờ. Tất cả
những đứa trẻ con nhà đàng hoàng đều phải hiểu điều ấy. Đưa tay ra, tất cả. –
Nhưng thưa xơ, lỗi của con mà! Meggie kêu lên. – Im ngay! Agatha quay qua
Meggie ra lệnh – Tôi không cần biết ai là thủ phạm. Tất cả đều đi trễ, vậy tất
cả phải bị phạt. – Sáu roi. Bà kết án bằng giọng đều đều, chứa đựng sự đắc ý.
Meggie hốt hoảng nhìn hai bàn tay không nhúc nhích của Bob, rồi nghe tiếng rít
của cây roi dài quất xuống nhanh đến nỗi mắt Meggie không theo kịp. Tiếng voi
vang lên khi đụng vào bàn tay, nơi da thịt mỏng và mềm. Những đường dàiđỏ ửng nổi
lên ngay; lần đánh sau trúng gần ngón tay và lần chót trúng ngay các đầu ngón
tay đau thốn tới óc. Xơ Agatha sử dụng cây roi một cách đặc biệt chính xác.
Thêm ba roi nữa quất xuống dưới tay bên kia của Bob, rồi bà quay sang Jack. Mặt
Bob tái nhợt nhưng không một tiếng rên. Và xơ Agatha đã dùng cách đánh ấy với
các đứa em trai của Bob, kể cả Stuart hiền hậu và dịu dàng nhất. Tất cả không một
tiếng rên. Đến Meggie, cô bé nhắm mắt lại khi ngọn roi giơ lên cao và không thấy
nó sa xuống lúc nào. Nhưng sự đau đớn thật dữ dội, da thịt như bị xé ra và nhức
thấu xương. Rồi ngọn roi thứ hai quất xuống; cơn đau lên đến vai thì ngọn roi
thứ ba và thứ tư tiếp theo, trúng ngay những đầu ngón tay.
Meggie
cắn môi đến khi rướm máu, và cảm thấy xấu hổ khi bật ra tiếng khóc. Tức giận phẫn
nộ trước một sự bất công như thế, Meggie mở lớn đôi mắt nhìn xơ Agatha. Đó là
bài học đầu tiên của cô bé, bài học không chứa đựng những điều mà đáng ra vị nữ
tu phải đưa vào. Mãi cho đến giờ ăn trưa, hai bàn tay Meggie mới có thể hoạt động
lại bình thường. Meggie đã trải qua một buổi sáng đầy sợ hãi sửng sốt về những
gì đã xảy ra, đã nghe thấy. Ngồi trước chiếc bàn có hai ghế, ở tận cùng phòng học,
Meggie cũng không chú ý người bạn cùng bàn mình là ai. Cô bé trải qua giờ cơm
trưa buồn bã. Khi tiếng chuông báo hiệu tiết học trưa bắt đầu, Meggie tìm một
chỗ đứng vào hàng, lúc ấy cô bé mới nhận ra những gì chung quanh. Nỗi xấu hổ bị
phạt chưa vơi nhưng cô bé vẫn ngẩng cao đầu và làm như không nghe những tiếng
xì xào trong đám bạn nhỏ cùng lớp, cũng như không để ý đến những chiếc cùi chỏ
thúc vào nhau. Xơ Agatha đứng oai vệ trước học sinh với cây roi dài trong tay;
xơ Declan đi đi lại lại ở cuối hàng. Xơ Catherine ngồi trước đàn dương cầm bắt
đầu đánh bản: Hãy tiến lên, các con chiên của Chúa. Các cô cậu dễ thương này đi
đều bước như những người lính nhỏ – xơ Catherine thầm nghĩ như thế với tất cả
niềm kiêu hãnh. Trong ba nữ tu, xơ Declan là mẫu chép nguyên bản của xơ Agatha
với mười lăm tuổi nhỏ hơn, chỉ có xơ Catherine thì còn có chút gì nhân từ. Ở
hàng ghế cuối lớp, Meggie liều lĩnh liếc mắt nhìn sang cô bạn gái nhỏ ngồi
chung bàn với mình. Một nụ cười sún răng đáp lại. Đôi mắt đen tròn làm gương mặt
u buồn trở nên rực sáng. Cô bé thu hút Meggie có màu tóc đỏ hoe, gương mặt đầy
những vết tàn nhang. – Bạn tên gì? Cô bé có vẻ đẹp buồn hỏi Meggie, miệng cắn đầu
cây bút chì. – Meggie Cleary – tiếng trả lời của Meggie thật nhỏ. – Hai em đằng
kia! một giọng khô khan vang lên từ đầu lớp. Meggie giật thót người, nhìn dáo
dác xung quanh hoảng sợ, tim cô bé như va chạm vào lồng ngực. Meggie nhận ra là
cả lớp đang nhìn mình. Xơ Agatha bước xuống đi thẳng đến Meggiẹ Sự sợ hãi khiến
Meggie mong chờ một phép lạ nào giúp mình biến mất, hoặc phải co chân chạy ngay
khỏi nơi này. Phía sau là bức tường, hai bên là những bàn học, còn trước mặt là
xơ Agatha. – Meghann Cleary, em đã nói chuyện. – Thưa xơ, vâng. – Em nói gì đấy?
– Tên con, thưa xợ
–
Tên em? Xơ Agatha lặp lại bằng giọng chế diễu vừa đảo mắt nhìn khắp lớp, như muốn
giải thích những lời lên án của mình. – Này các em, hết chuyện rồi! Thêm một
thành viên của gia đình Cleary mang lại vinh dự cho trường của chúng ta bằng sự
hiện diện của họ. Do đó cô ta phải loan báo một cách ầm ĩ tên mình (rồi xơ quay
lại phía Meggie). Đứng lên! Em phải đứng lên khi tôi đang nói với em, đồ con nhỏ
rừng rú! Đưa hai tay ra. Meggie bước nhanh ra khỏi hàng ghế, những lọn tóc dài
tung lên rồi rơi xuống che khuất một phần gương mặt. Cô bé vặn chéo hai tay một
cách tuyệt vọng nhưng xơ Agatha vẫn không nhúc nhích, bà ta cứ chờ, cứ chờ, cứ
chờ… Sau cùng Meggie tìm được chút gan dạ chìa lòng bàn tay ra. Nhưng ngay
lúc cây mây đập xuống, cô bé rút bàn tay lại thật nhanh vừa thở hổn hển, mặt
xanh như cắt. Xơ Agatha chụp lấy và kéo chùm tóc hung về phía bà, gương mặt của
Meggie áp sát vào cặp kính của bà. – Đưa tay ra, Meghann Cleary – xơ Agatha ra
lệnh, giọng lịch sự nhưng lạnh lùng và quyết liệt. Meggie há miệng ra và nôn cả
buổi ăn trưa lên chiếc áo dài của xơ Agatha. Tiếp đó là tiếng hét kinh hãi của
học sinh trong lớp; trong khi đó xơ Agatha trố mắt nhìn những thứ gớm ghiếc vừa
nôn ra chảy dài từ trên xuống theo những đường xếp của chiếc áo. Mặt bà đỏ gay
vì tức giận điên người cùng với chút kinh hãi. Cây mây quất xuống không cần biết
nhắm vào đâu, Meggie đưa hai tay lên che mặt rồi chạy trốn vào một góc lớp, miệng
vẫn tiếp tục nôn mửa. Xơ Agatha đã mỏi mệt không thèm đánh nữa, bà chỉ ra cửa:
– Ra khỏi đây! Về nhà của mày đi, đồ thất học đáng ghê tởm. Rồi bà quay phắt lại
bước sang lớp học của xơ Declan. Đôi mắt luống cuống của Meggie tìm thấy
Stuart, người anh học chung lớp ra hiệu cô phải vâng lời. Cái nhìn hiền hòa của
Stuart đầy thương hại và thông cảm với Meggiẹ Cô bé lấy khăn tay chùi miệng và
khập khiễng bước ra khỏi lớp. Còn những hai tiếng đồng hồ nữa mới hết giờ học;
Meggie rời sân trường như một cái máy đi xuống đường và biết rằng các anh mình
sẽ không theo kịp. Vì quá sợ hãi, Meggie không biết phải đứng lại nơi nào để chờ
các anh; Meggie muốn về trước một mình và chỉ một mình thôi để kể với mẹ tất cả
những gì xảy ra.
CHƯƠNG
4
Fiona
suýt nữa ngã vào con gái khi bước qua ngưỡng cửa sau nhà, tay xách một giỏ quần
áo sắp sửa đem phơi. Meggie đang ngồi trên bậc cao nhất ở ngoài hàng hiên, đầu
gục xuống, tóc rũ rượi, dơ bẩn. Fiona đặt chiếc giỏ nặng xuống, thở ra, đưa tay
vẹt qua một bên phần tóc che khuất mặt Meggie. – Nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy
ra? Bà hỏi bằng giọng mệt mỏi. – Con nôn ra đầy áo của xơ Agathạ – Chúa ơi!
Fiona kêu lên, hai tay chống vào hông. – Bà cũng đã quất cho con nhiều roi –
Meggie nói không ra tiếng, nước mắt ràn rụa. – Thật sạch sẽ quá – Fiona đứng
lên khó nhọc xách chiếc giỏ quần áo đầy nắp – Meggie, mẹ không biết phải làm gì
đây, rồi ba về sẽ cho một trận. Nói xong bà băng qua sân đi về phía hàng dây
phơi quần áo. Meggie lấy tay quệt nước mắt; nhìn theo mẹ một lúc rồi đứng lên
và đi xuống con đường dẫn đến lò rèn. Frank vừa đóng móng xong cho con ngựa cái
của ông Roberson thì Meggie xuất hiện. Anh ta quay lại và thấy Meggie. Những kỷ
niệm không lấy gì tốt đẹp mà cậu ta từng trải qua ở nhà trường lại ập đến.
Meggie quá nhỏ bé, mũm mĩm thơ ngây biết bao, và những gì Frank nhìn thấy trước
mắt khiến anh không thể không nghĩ đến việc giết ngay xơ Agatha. Giết bà ta, giết
bà ta thật sự. Anh ta buông mấy thứ đang cầm trong tay, tháo cái tạp dề bằng da
ra và đến nhanh bên Meggie. – Chuyện gì đã xảy ra em gái cưng của anh? – Frank
vừa hỏi vừa quì xuống trước mặt em gái. Mùi nôn mửa xông ra từ em gái làm cho
Frank cũng khó chịu nhưng cậu ta cố chịu đựng. – Anh Frank – Frank – Frank! Cô
bé nói như rên siết, gương mặt nhăn nhó đau đớn, và bây giờ nước mắt mới tuôn
trào. Meggie nhào tới ôm ghì lấy Frank, và khóc không ra tiếng, nhưng lại rất
đau khổ. Khi Meggie dịu bớt cơn xúc động, Frank bế em gái đặt trên đống cỏ khô
mùi dễ chịu, bên cạnh con ngựa cái của ông Roberson. Cả hai ngồi yên lặng nhìn
con vật nhấm ở rơm. Đầu của Meggie ngả vào phần ngực trần êm ái của Frank.
–
Tại sao bà ta phạt tất cả anh em mình hở anh Frank? – Meggie hỏi. – Em đã nói
là lỗi riêng của em mà. Bây giờ thì Frank đã quen cái mùi toát ra từ chiếc áo của
em và anh ta không còn chú ý nữa. Bất chợt, Frank đưa tay ra, lơ đãng vuốt mũi
của con ngựa cái, đẩy nó ra khi nó có vẻ quá thân mật. – Chúng ta nghèo,
Meggie, đó là lý do chính. Các dì phước luôn luôn ghét học sinh nghèo. Nếu em
còn đi học ở cái trường hắc ám đó của xơ Agatha vài ngày nữa, em sẽ thấy bà ta
không chỉ nhắm vào anh em Cleary, mà cả anh em Marshall Mac Donald. Tất cả đều
nghèo. Ngược lại, nếu chúng ta giàu, đi học bằng xe ngựa có mui sập sang trọng
như dòng họ O” Brien, các bà xơ sẽ nhảy tới ôm cổ chúng ta. Nhưng chúng ta
không có điều kiện để tặng một cây đàn ócgơ cho nhà thờ, cũng không có những áo
choàng lễ nạm vàng, hay một con ngựa, một chiếc xe cũ tặng cho các bà nữ tu
dùng việc riêng, nên chúng ta chẳng là gì. Các bà muốn đối xử với chúng ta như
thế nào tùy ý. Cô bé ngái ngủ, hai mí mắt trì nặng xuống. Frank đặt em nằm trên
đống cỏ khô và trở lại công việc của mình, trên môi điểm một nụ cười và cất tiếng
hát nho nhỏ. Meggie đang ngủ thì Pađy bước vào, tay lấm đầy phân vì ông ta vừa
chùi rửa chuồng ngựa của ông Jarman. – Mẹ con mới cho ba hay la Meggie bị phạt ở
trường và bị đuổi về nhà. Con có biết lý do hay không? Frank để cái trục xe qua
một bên. – Tội nghiệp nó đã nôn vào áo của xơ Agathạ Pađy đổi sắc mặt, mắt nhìn
thẳng về phía bức tường xa nhất như đang tìm một thái độ. Rồi ông lại hướng mắt
về phía Meggiẹ – Con bé bị xúc động quá mức ngay buổi học đầu tiên chứ gì? –
Con không rõ. Nó đã nôn ở nhà trước khi đi và do đó làm cho cả bốn đứa phải trễ
giờ. Chúng đến trường sau khi kiểng đổ. Mỗi đứa đều bị ăn sáu roi, riêng Meggie
bấn loạn vì cho rằng nó là người có lỗi duy nhất đáng bị phạt. Sau buổi ăn trưa,
Meggie lại bị xơ Agatha đánh một lần nữa, thế là Meggie của chúng ta đã trút
toàn bộ bánh mì và mứt lên trên chiếc áo dài màu đen của xơ Agathạ – Rồi chuyện
gì xảy ra tiếp đó? – Xơ Agatha đã tặng thêm một trận đòn cho Meggie và đuổi nó
về nhà.
–
Như vậy, Meggie đã bị phạt là đúng. Ba rất kính trọng các dì phước và ba cũng ý
thức rằng chúng ta không có quyền chỉ trích hành động của các dì. Nhưng ba mong
rằng các dì sẽ sử dụng roi thước bớt đi. Ba biết các dì phải khổ tâm lắm mới
nhét được vào những cái đầu khó bảo của người Ái Nhĩ Lan chúng ta một chút văn
hóa. Dù sao đó là ngày đi học đầu tiên của Meggie. Frank nhìn cha sửng sốt. Lâu
nay chưa bao giờ Pađy nói chuyện với con trai lớn trong tư thế giữa hai người
đàn ông. Lần đầu tiên được lôi ra khỏi những oán giận thường xuyên đầy ắp,
Frank hiểu ra rằng dù với bề ngoài cứng rắn, cha mình vẫn tỏ ra âu yếm Meggie
hơn cả bọn con trai. Frank cảm thấy gần với cha hơn. Anh mỉm cười không có chút
ẩn ý. – Meggie là một đứa trẻ tuyệt vời phải không ba? Pađy tán đồng một cách
lơ đãng câu hỏi của Frank vì ông đang nhìn Meggiẹ Con ngựa cái nhe răng, hỉnh
mũi thở phì phì; Meggie trở mình, lăn qua một bên rồi mở mắt. Khi nhìn thấy cha
đứng kế bên Frank, cô bé bật ngồi dậy, mặt tái nhợt vì sợ sệt. – Sao cô gái bé nhỏ,
con đã trải qua một ngày rất mệt nhọc phải không? Pađy bước tới, bế Meggie lên
và không khỏi giựt mình vì mùi tanh xông lên mũi. Nhưng ông nhún vai và ôm con
gái vào lòng. – Con bị đánh đòn bằng gậy… – Meggie nói với chạ – Này nhé, xơ
Agatha cho ba biết đây chưa phải là lần cuối cùng đâu (ông đặt Meggie lên vai)
– Bây giờ tốt hơn hết con xem mẹ có sẵn nước nóng để tắm không. Con gái ba mà
hôi hám hơn cả chuồng ngựa của Jarman. Những lần nôn mửa của Meggie đã mang lại
một kết quả khá tốt. Xơ Agatha vẫn dùng roi đánh cô bé nhưng bây giờ bà luôn
luôn giữ một khoảng cách đủ để tránh những hậu quả bất ngờ. Do đó mà sực mạnh của
làn roi và sự chính xác đã không còn như trước. Khi Meggie chưa đến trường thì
Stuart là mục tiêu chính của ngọn roi trong tay xơ Agatha. Nhưng thật ra,
Meggie lại là đối tượng hành hạ thích thú hơn, vì tánh hay mơ mộng và kín đáo của
Stuart ít có chỗ sơ hở cho xơ Agatha khai thác. Meggie quen tay trái. Đó là cái
tội đáng trị nhất. Ngày tập viết đầu, khi cô bé cầm cục phấn lên, xơ Agatha đã
lao vào cô bé như César lao vào lính Gaulois: – Meghann Cleary, bỏ cục phấn xuống
ngay! – bà ta hét lên. Thế là một trận chiến dằng lại diễn ra. Meggie quen tay
trái, bất trị, không khoan nhượng. Khi xơ Agatha bẻ cụp bàn tay mặt của Meggie
trên tấm bảng, Meggie thấy đầu óc đảo lộn, khổng biết cách nào điều khiển bàn
tay bất lực của mình làm theo đòi hỏi của xơ Agatha. Bà ta có làm gì đi
nữa,
bàn tay mặt của Meggie vẫn không thể kẻ được chữ A. Thừa lúc xơ Agatha vừa quay
sang chỗ khác, Meggie nhanh hơn dùng tay trái viết một chữ A thật đẹp. Nhưng cuối
cùng xơ Agatha đã thắng. Một buổi sáng trong lúc các học sinh đang xếp hàng, xơ
Agatha đến lắm lấy tay của Meggie kéo ra sau lưng rồi dùng một sợi dây thừng cột
chặt lại. Xơ Agatha chỉ tháo dây khi chuông báo tan học vào lúc ba giờ chiều.
Ngay giờ nghỉ buổi trưa, Meggie cũng phải ăn, đi dạo và chơi với một bên tay
trái hoàn toàn bất động. Ba tháng sau, Meggie tập được viết bằng tay mặt khá
ngay ngắn, theo những qui định do xơ Agatha đề ra. Để đảm bảo chắc chắn cô bé
không sử dụng trở lại tay trái, bà ta tiếp tục cột như thế thêm hai tháng. Sau
đó xơ Agatha tập hợp tất cả học sinh để đọc một tràng kinh, cảm ơn Đức Chúa Trời
với lòng nhân từ của Ngài, đã chứng minh sai lầm của Meggie – Những đứa con của
Đức Chúa Trời nhân từ đều sử dụng tay mặt; những người sử dụng tay trái là do
quỷ sứ sinh ra, nhất là khi chúng có tóc màu hung. Năm học sắp hết, tháng 12 đến
và ngày sinh nhật của Meggie cũng gần rồi. Như một thông lệ của gia đình khi
sinh nhật của các con rơi vào một ngày đi học thì buổi lễ được dời qua ngày thứ
bảy. Quà sinh nhật của Meggie năm nay là một bộ tách dĩa với những hình vẽ đề
tài Trung Quốc mà cô bé mong muốn từ lâu. Bộ tách dĩa ấy được đặt trên một chiếc
bàn nhỏ xinh sắn màu xanh dương chung quanh có những chiếc ghế nhỏ. Tất cả do
Frank làm cho em trong những lúc rỗi rảnh. Thế là Agnès mặc chiếc váy màu xanh
mới, do chính mẹ Meggie cắt và may, được đặt trên một trong những chiếc ghế ấy.
Hai ngày trước Noel năm 1917, Pađy trở về nhà đặt lên bàn tờ tuần báo và một chồng
sách mượn của thư viện lưu động. Lần thứ nhất, việc đọc báo được chọn trước việc
đọc sách. Tổng biên tập vừa áp dụng một công thức mới cho tờ tuần báo phỏng
theo các tạp chí Mỹ. Ở phần giữa tờ báo được dành trọn để phản ánh tình hình
chiến cuộc đang diễn ra. Frank chụp lấy tờ báo và đọc ngấu nghiến các bài tường
thuật. – Thưa ba, con muốn ghi tên vào quân đội. – Frank vừa nói vừa đặt tờ báo
xuống bàn một cách lễ phép. Fiona quay phắt đầu lại, làm đổ món ragu xuống bếp;
Pađy giật nẩy mình trong ghế bành Windsor, ngưng đọc sách. – Con còn quá trẻ,
Frank. – Ông đáp lại.
–
Thưa ba, con đã 17 tuổi. Con là một người lớn! Tại sao bọn Đức và bọn Thổ có
quyền tàn sát quân lính của chúng ta như những con heo, trong khi đó con lại ở
nhà ngồi bình yên? Đã đến lúc một thanh niên của dòng họ Cleary phải phục vụ Tổ
quốc. – Nhưng con chưa tới tuổi, Frank – người ta không nhận con đâu. – Nhận. Nếu
ba không ngăn trở – Frank nói ngược lại một cách quyết liệt, mắt vẫn nhìn chạ –
Nhưng ba không đồng ý. Con là lao động duy nhất trong gia đình hiện naỵ Gia
đình cần tiền do con làm ra. Con biết điều đó. – Nhưng trong quân đội con cũng
được trả lương. – Lương lính hả? – Pađy vừa hỏi vừa cười. – Một thợ rèn ở
Wahine có thu nhập nhiều hơn một người đi lính ở châu âu. – Nhưng khi con ở đó,
con có hy vọng đổi thay số phận thợ rèn của con! Đây là lối thoát duy nhất của
con. – Tất cả điều đó đều là chuyện tầm phào! Trời ơi, con không hiểu chút nào
về những điều con đang nói. Ba sinh ra từ một đất nước trải qua một ngàn năm
chiến tranh, do đó ba biết ba đang nói gì. Con có bao giờ nghe, các cựu chiến
binh kể lại cuộc chiến của những người nông dân gốc Hà Lan ở Nam Phi chống lại
quân Anh? Con thường ra thị trấn Wahine; vậy lần tới con hãy tìm hiểu. Ba nghĩ
điều đó sẽ rất bổ ích cho con. Ngoài ra ba có cảm tưởng bọn Anh không thích
dùng người Tây Tây Lan; bọn chúng luôn bố trí lính Tây Tây Lan ở những nơi dễ
chết nhất để tránh nguy hiểm cho mạng sống quí giá của họ. Cứ xem cái cách mà
viên tướng Chwichell đã đưa quân lính của chúng ta đến một khu vực hoàn toàn
không cần thiết như ở Gallipili thì cũng biết. Mười ngàn người bị thiệt mạng
trong số năm mươi ngàn. Tại sao lại phải đi chiến đấu cho cuộc chiến của Anh? Nước
Anh đã giúp ích gì cho con, cái xứ gọi là Mẹ Tổ Quốc ấy, ngoại trừ việc hút các
thuộc địa đến giọt máu cuối cùng. Nếu con đến nước Anh, con sẽ gặp ngay sự
khinh bỉ vì con đến từ một xứ thuộc địa. Tây Tây Lan không hề bị đe dọa, kể cả
Úc. – Nhưng con vẫn muốn vào quân đội. – Con có thể muốn bất cứ điều gì nhưng con
sẽ không rời khỏi nơi đây. Hay nhất là con quên đi tất cả những chuyện ấy. Hơn
nữa con còn quá nhỏ để trở thành người lính. Gương mặt của Frank đỏ gay, hai
môi mím chặt lại, cậu ta cảm thấy đau khổ về chiều cao dưới trung bình của
mình. Mới đây, một nỗi nghi ngờ đáng sợ lại xâm chiếm Frank. Mười bảy tuổi rồi
mà Frank vẫn cao đúng một thước năm mươi chín, đó là chiều cao khi Frank được
14 tuổi; phải chăng mình không còn cao lên nữa.
Thế
nhưng, công việc ở lò rèn đã mang lại cho anh một thể lực hơn hẳn vóc dáng của
anh. Tuy nhỏ con nhưng Frank có một sức mạnh vô địch. Ở tuổi 17; anh chưa bao
giờ bị đánh bại trong bất cứ một cuộc thi đấu quyền Anh nào. Frank được nhiều
người khắp bán đảo Taranaki biết đến. Pađy nhìn chăm chú Frank, cố tìm hiểu đứa
con trai lớn của mình nhưng ông cảm thấy bất lực, Frank là đứa con “xa con tim”
của ông nhất dù cho ông đã cố gắng không thiên vị bất cứ đứa con nào. Cuộc
tranh luận trên bàn ăn bỗng tắt ngang khi Pađy nhận xét về chiều cao của Frank;
cả gia đình cúi đầu và im lặng khác thường, họ ăn món ragu thỏ. Meggie không
ăn, mắt cứ nhìn Frank như lo sợ lúc nào đó anh mình có thể biến đi mất. Còn
Frank, sau khi ăn sạch, ngồi nán lại một lúc cho đủ lễ, rồi đứng lên đi ra
ngoài. Một phút sau tiếng rìu bửa củi vang vào tận trong nhà. Frank tấn công những
khúc gỗ cứng nhất mà Pađy đã dự trữ để chuẩn bị đốt vào mùa đông, củi loại này
cháy chậm. Trong khi mọi người nghĩ rằng Meggie đã ngủ, cô bé lẻn ra khỏi phòng
bằng ngã cửa sổ và đi đến vựa củi, nơi đây được coi là đáng kể nhất trong đời sống
của cả nhà. Vựa củi chiếm khoảng đất rộng một trăm mét vuông, Frank đang đứng
giữa bãi, chiếc rìu sáng loáng giơ cao hạ xuống nghe rít trong gió, những mảnh
gỗ nhỏ văng tứ tung, lưng trần của Frank như thoa mỡ, mồ hôi chảy xuống từng giọt.
Meggie rón rén đến im lặng bên chiếc áo sơ mi và áo lót của Frank vứt ở một
góc, nhìn anh mình với chiếc rìu, Meggie không khỏi ngạc nhiên. Có đến ba cái
rìu như thế sẵn sàng để thay vì vỏ cây bạch đàn có thể làm lụt đi nhanh chóng
những cái bén nhất. Frank tiếp tục làm việc gần như theo bản năng dưới ánh sáng
hoàng hôn đang tắt lịm. Meggie né tránh nhanh nhẹn những mảnh gỗ nhỏ và chờ cho
Frank khám phá sự hiện diện của mình. Khi Frank quay lại để lấy một cái rìu
khác thi anh ta bắt gặp cô em gái, ngồi đó im lặng trong chiếc áo sơ mi của
Frank cài nút thật kỹ từ trên xuống dưới. Frank bước đến gần Meggie ngồi xổm xuống,
chiếc rìu vẫn để giữa hai đầu gối. – Em ra đây bằng cách nào hỡi cô bé lém lỉnh?
– Ngã cửa sổ. Em chờ cho Stuart ngủ mệ – Coi chừng đấy, em sẽ trở thành một thằng
con trai hư hỏng mất. – Mặc kệ. Em vẫn thích chơi với bọn con trai hơn là buồn
hiu một mình. – Dĩ nhiên là thế.
–
Có chuyện gì không Meggie? – Frank, anh không đi thật chớ? Meggie đặt hai bàn
tay lên đùi anh mình và ngước nhìn bằng mắt âu lo, miệng mở lớn, còn nước mắt
đã chảy xuống đầy lỗ mũi làm cho cô bé cảm thấy khó thở. – Vâng có lẽ anh sẽ đi
Meggie ạ – Frank trả lời dịu dàng. – Anh Frank ơi, không nên! Mẹ và em rất cần
anh! Nhà này không thể thiếu vắng anh được. Frank mỉm cười dù biết khi nghe
Meggie hồn nhiên lặp lại những lời nói giống hệt mẹ. – Meggie, có những việc xảy
ra không như mong muốn của chúng tạ Em phải biết điều đó. Trong nhà này các
thành viên của gia đình Cleary đã được dạy phải làm việc chung nhau vì lợi ích
của mọi người mà không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Anh muốn ra đi vì anh đã
17 tuổi, đã đến lúc phải tự lập. Nhưng cha không đồng ý. Người ta cần anh ở nhà
vì lợi ích chung. Vì anh chưa đủ 21 tuổi nên anh phải nghe lời chạ Meggie gật đầu
thật nhanh, cố gắng hiểu cho được những điều mà Frank giải thích. – Thế đấy
Meggie. Anh đã suy nghĩ rất kỹ và anh sẽ ra đi, anh không thay đổi quyết định.
Anh biết mẹ và em không muốn thiếu anh, nhưng Bob lớn rất nhanh. Rồi ba và các
em sẽ không nhận ra sự vắng mặt của anh đâu. Chỉ có đồng tiền của anh kiếm đuợc
là đáng kể đối với ba thôi. – Thế là anh không thương ba mẹ và tụi em nữa sao hở
anh Frank? Frank quay lại ôm Meggie trong vòng tay, siết mạnh vào lòng, vuốt ve
cô em gái với nỗi sung sướng. Hình như có gì quyện chặt vào như là sự tra tấn,
pha lẫn đau buồn, cùng xót xa và cả đói. – Không đâu Meggie! Anh thương em vô
cùng, thương mẹ và em hơn tất cả mọi người cộng lại. Chúa ơi, phải chi em lớn
hơn thì anh có thể giải thích cho em nghe. Nhưng có lẽ cũng may khi em còn bé bỏng
như thế này… Đúng thế, như thế này vẫn tốt hơn… – Em van anh, anh đừng đi
Frank ạ. – Meggie của anh, em không hiểu những gì anh đã nói à? Nhưng thôi, điều
đó không quan trọng. Cái chính là em đừng nói cho ai biết em đã gặp anh. Em có
nghe không? Anh không muốn nguời khác biết em đã rõ chuyện này. Meggie đứng
lên, ráng nở nụ cười: – Anh thấy cần phải đi thì cứ đi, anh Frank. – Meggie, em
nên trở về phòng và lên giường trước khi mẹ biết được em không có ở đó. Đi đi,
chạy nhanh lên…!
Sáng
hôm sau, Frank đã đi khỏi nhà. Khi Fiona vào đánh thức Meggie, nét mặt của bà
căng thẳng, nghiêm nghị hơn lúc nào hết. Meggie nhảy ra khỏi giường như con mèo
bị phỏng nước sôi và tự mặc quần áo vào không cần nhờ mẹ cài những chiếc nút nhỏ.
Ở bếp, mấy cậu con trai đã ngồi chung quanh bàn, buồn bã. Ghế của Pađy trống.
Ghế của Frank cũng trống. Meggie im lặng rón rén ngồi vào chỗ của mình, răng cắn
chặt vào nhau lo sợ. Sau buổi ăn sáng, Fiona ra lệnh cho các con dọn dẹp nhà.
Ra phía sau nhà kho, Bob báo tin với Meggiẹ – Frank đã đi rồi – Bob nói thật nhỏ.
– Có lẽ anh ấy chỉ đi Wahine – Meggie đặt giả thiết. – Không đâu. Đồ ngu như
bò. Anh ấy bỏ nhà ra đi để đăng vào lính. Anh cũng muốn lớn nhanh lên để có thể
làm như Frank! Anh ấy may mắn lắm. – Còn em thì thích anh ấy ở lại nhà hơn. –
Đúng quá, em chỉ là một đứa con gái. Khi Meggie trở vào nhà, cô bé hỏi mẹ. – Ba
đâu rồi? – Ba đi Wahinẹ – Có phải ba đi để đem Frank về? – Thật không có cách
nào giấu chuyện bí mật trong gia đình này – Fiona cằn nhằn. – Không, ba không
đi tìm Frank ở Wahine. Ba biết Frank đi đâu. Ba đi đánh điện tín cho cảnh sát
và cho quân đội ở Wanganui. Lính quân cảnh sẽ mang anh con về đây. – Mẹ ơi, con
hy vọng rằng họ sẽ tìm ra Frank. Con không muốn Frank đi luôn. – Không một ai
trong chúng ta muốn Frank ra đi. Chính vì thế mà ba sẽ lo liệu những điều cần
thiết… để người ta đưa Frank trở về đây. Tội nghiệp thằng Frank con tôi! Tội
nghiệp Frank! – Bà không nói với Meggie mà than vãn một mình. – Tôi không hiểu
tại sao trẻ con phải gánh chịu mọi tội lỗi của người lớn. Thằng Frank tội nghiệp
của tôi, nó khác tất cả… Ba hôm sau, cảnh sát mang Frank trở về! Cậu ta chống
lại dữ dội như một con sư tử – theo lời của viên trung sĩ ở Wanganui kể lại cho
Pađy. – Hắn ta đúng là một tên võ sĩ. Khi anh chàng biết được rằng Văn phòng
tuyển binh đã được thông báo về trường hợp của hắn, hắn vọt chạy nhanh như một
ngọn lao. Nếu hắn không xui rủi đụng đầu một toán lính tuần thì có lẽ đã thoát
thân. Hắn chống lại dữ dội như một kẻ bị ma ám. Phải cần tới năm người mới còng
hắn được. Anh ta quậy như làm xiếc.
Vừa
kể lể một cách hấp dẫn, viên cảnh sát vừa tháo những dây xích nặng nề trả lại tự
do cho Frank rồi đẩy Frank qua ngưỡng cửa. Frank bị loạng choạng và khi lấy lại
thăng bằng anh đã đứng ngay trước mặt Pađy. Cậu ta co rúm người lại như thể sợ
bị phỏng nếu chạm phải thân thể của chạ Các em của Frank đứng chung quanh nhà
nhìn lại. Meggie âu lo không biết người ta có làm gì hại Frank không. Frank
quay sang nhìn mẹ trước hết, hai mắt màu đen và màu nâu pha trộn nhau trong một
sự kết hợp chưa bao giờ được nói ra và cũng không bao giờ nên nói ra. Ánh mắt
khắt khe màu xanh của Pađy nhìn thẳng Frank vừa khinh miệt, vừa chua cay, như
ngầm nói không thể chờ đợi gì khác hơn ở một đứa con như thế. Mắt Frank nhìn xuống
đất, chấp nhận cái quyền nổi giận của cha mình. Từ hôm đó, Pađy không nói chuyện
với con trai ngoại trừ những câu cần nói. Gặp lại các em mình, đó là điều hết sức
khổ tâm với Frank vừa hổ thẹn, vừa khó chịu, như con chim lộng lẫy bay lên cao
từ phương trời xa thẳm nào đó, rồi bỗng bị bắt phải quay về bị gẫy cánh, tiếng
hót trở nên lặng lẽ. Buổi tối như thường lệ, Meggie chờ mẹ kiểm soát xong các
con đi ngủ, cô bé mới chuồn ra cửa sổ và băng qua sân sau; Meggie biết rõ Frank
ở đâu giờ này. Ở một góc nhà kho, tránh mọi cái nhìn soi nhói, nhất là của cha.
– Frank, Frank, anh ở đâu? Cô bé hạ thấp giọng hỏi. Meggie bước vào nhà kho tối
mịt, chân dò dẫm mặt đất với nỗi lo sợ chạm phải một con vật nào đó. – Lại đây,
Meggie. Cô bé rất khó khăn mới nhận ra được giọng nói của Frank. Giọng nói ấy
trước đây rất quen thuộc với Meggie bây giờ lại nghe đều đều, không còn sự nồng
ấm trong đó. Theo hướng gọi, Meggie đi lần đến chỗ Frank nằm rồi ngã vào lòng
anh, hai tay ôm Frank, tay dài được bao nhiêu cô bé ôm hết bấy nhiêu. – Frank
ơi, em sung sướng quá vì anh đã trở về đây. Frank tìm cách nằm sát hơn nữa dưới
đống cỏ khô để có thể nhìn ngang mặt Meggie. Tay cô bé luồn vào tóc của Frank
miệng kêu lên gừ gừ như con mèo con. Bóng đen dày đặc không cho Frank nhìn rõ mặt
em, thế nhưng tình cảm của Meggie bỗng chốc phá tung những gút mắc trong lòng
anh. Frank bắt đầu khóc, run rẩy toàn thân một cách đau đớn, nước mắt làm ướt
áo cô bé. Meggie thì không khóc. Cái gì đó trong tâm hồn nhỏ bé của Meggie đã sớm
chín muồi và cô bé
trở
thành một người khác có thể cảm nhận được niềm vui tràn ngập, dữ dội, ý thức rõ
về sự cần thiết của mình. Meggie ngồi, tay lay nhẹ đầu tóc nâu thân yêu, cứ thế
cho đến khi nỗi đau ở Frank dịu bớt và tan vào khoảng trống.
CHƯƠNG
5
“Con
đường đi Drogheda chẳng gợi một chút kỷ niệm thời thơ ấu của mình” – cha
Ralph de Bricassart thầm nghĩ như thế. Mắt chỉ mở phân nửa đủ để chống chỏi lại
ánh sáng quá chói chang giữa lúc chiếc ô tô mới hiệu Daimler đang lăn bánh trên
con đường đất gồ ghề bị đào xới bởi những chiếc xe bò qua lại. Không có chút gì
êm ả, xanh tươi và mờ ảo của Ailen ở cái xứ này. Drogheda! chẳng phải chiến trường
mà cũng chẳng có cuộc vây hãm của cường quốc nào trong lịch sử. Nói thế có quá
lố không? Trong con người cha Ralph tính hài hước vẫn rất nhạy, nó đã vẽ ra
trong ông hình ảnh một Mary Carson ác cảm và đầy quyền lực theo kiểu nhân vật
Cromwell. Cổng rào cuối cùng hiện lên đàng sau một cụm cây. Chiếc xe đỗ lại, tiếng
máy nghe khá to. Cha Ralph bước xuống, đầu đội chiếc nón rộng vành màu ghi đã bạc.
Ông kéo cái chốt ra rồi đẩy cánh cổng bực bội. Có ít nhất hai mươi bảy chiếc cổng
rào như thế từ nhà của cha Ralph ở Gillanbone đến lãnh địa Drogheda; cứ đến mỗi
cổng rào cha Ralph phải dừng xe lại bước xuống, mở cổng rồi trở lên xe, cho xe
chạy vào bên kia cổng rồi lại dừng xe lại, bước xuống đóng cổng lại, rồi lại trở
lên xe cho đến cổng kế tiếp. Nhiều lúc ông có ý định giảm bớt phân nửa cái công
việc đều đặn mất công ấy bằng cách bỏ lại phía sau những cái cổng không được
đóng lại. Nhưng dù với cương vị thầy tu khiến cho nhiều người nể trọng, ông
cũng biết rằng điều đó vẫn không ngăn cản các vị chủ của những cổng rào sẽ buộc
ông trả một giá đắt cho sự cẩu thả của mình. Cưỡi ngựa thì không đi nhanh và tiện
lợi bằng xe ô tô nhưng đi ngựa lại có thể mở và đóng các cổng lại mà không cần
đặt chân xuống đất. “Tấm huy chương nào cũng có bề trái của nó” vừa nói, tay
cha Ralph vừa mân mê cái bảng chỉ dẫn tốc độ. Cái cổng ở phía sau đã được cài
chặt lại, cha cho ô tô chạy nốt cây số cuối cùng, tiến vào chính điện của khu vực
Droghedạ Trang trại này ở Úc khiến cho bất cứ ai cũng phải kính nể kể cả một người
Ái Nhĩ Lan quen thấy những lâu đài và dinh thự quí tộc. Drogheda là trang trại
xưa nhất và rộng nhất trong vùng. Ông chủ của nó, lão Michael Carson, – đã qua
đời – xây một tòa nhà rất hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vật liệu xây dựng
là sa thạch màu vàng lấy cách đây tám cây số; kiểu kiến trúc của tòa nhà nghiêm
trang theo thế kỷ thứ 18 đời vua George đệ nhất ở Anh với một tầng và những cửa
sổ rộng chia thành ô vuông nhỏ; một hành lang được chịu trên những cột sắt chạy
dài theo tầng trệt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ màu đen trang điểm cho chính diện
của tòa nhà cũng có công dụng của nó: giữa cái nóng oi bức mùa hè, các cánh cửa
đóng chặt để giữ cái mát mẻ bên trong.
Hôm
nay, trời vào thu, các gốc nho mọc lên cao những tua xoắn và lá rất xanh. Nhưng
vào mùa xuân, những dây đậu tía trồng vào lúc tòa nhà vừa xây – năm mươi năm trước
– kết thành một khối chắc nịch với những chùm cây tử đinh hương, cành túa ra rậm
rạp, đầy hoa bám dài theo tường và trên mái hiên. Quanh ngôi nhà, nhiều hecta cỏ
trải rộng như một tấm thảm, được chăm sóc rất kỹ lưỡng, rải rác đây đó là những
hình khối đối xứng, dù ở mùa nào, cũng rực rỡ màu sắc; hoa hồng, thược dược,
đinh tử v. v… chen nhau. Một cụm cây bạch đàn đẹp tuyệt màu trắng xám, với những
chiếc lá thon dài đong đưa cách mặt đất hai mươi thước, làm cho ngôi nhà tránh
được sức nóng dữ dội của mặt trời. Ngay cả những tháp chứa nước xấu xí cũng được
cái loại cây có hoa mọc đan len nhau che kín. Nhờ say mê trang trại, Michael
Carson còn sống đã xây không biết bao nhiêu là tháp và bồn nước. Người ta đồn rằng
Drogheda có thể giữ cho các thảm cỏ và các vườn hoa tiếp tục xanh tươi dù cho
trời không mưa trong mười năm. Cha Ralph rời ô tô, đang băng qua bãi cỏ thì một
đầy tớ gái xuất hiện ở hiên trước nhà. Gương mặt cô ta đầy tàn nhang, cười hết
miệng. – Chào chị Minnie – cha Ralph lên tiếng trước. – Thưa cha, thật hoan hỉ
được gặp cha vào buổi sáng đẹp này – Tiếng của chị ta vang lên vui vẻ, pha giọng
Ailen. Một tay chị giữ cánh cửa bật mở rộng, tay kia chị đưa ra đón lấy chiến
nón cũ hình dáng không có vẻ gì là đồ dùng của một tu sĩ. Mary Carson ngồi trên
chiếc ghế bành gần cửa sổ lớn mở rộng, dường như bà không chú ý đến cái lạnh
đang tràn vào căn phòng này. Mái tóc màu vàng hung của bà vẫn rực rỡ không kém
thời trẻ trung. Trên mặt điểm những nốt tàn nhang màu nâu vì tuổi tác, nhưng
không thể che giấu được dưới những nét nhăn. Dấu hiệu duy nhất về bản tính bướng
bỉnh của người đàn bà này ẩn chứa trong hai đường khắc sâu hai bên mũi chạy dài
xuống mép môi và trong đôi mắt màu xanh nhợt lạnh lùng. Cha Ralph lặng lẽ đi
ngang qua tấm thảm Aubusson và hôn tay lên bà chủ trang trại. Cử chỉ đó hoàn
toàn phù hợp với tầm vóc cao lớn, dáng dấp quí phái của vị linh mục. Hơn nữa
chiếc áo dòng màu đen giản dị còn mang lại ông cái vẻ lịch thiệp của một nhà
tu. Đôi mắt thản nhiên của bà Mary Carson bỗng sáng lên và hình như bà cố làm
duyên khi lên tiếng: – Cha dùng chút trà nhé? – Rất sẵn sàng, thưa bà Carson nếu
trước hết bà yêu cầu được xem lễ, ông đáp.
Ông
buông mình xuống chiếc ghế bành; chiếc áo dòng bị giật lên để lộ ra ở bên trong
chiếc quần cỡi ngựa mà hai ống nhét vào đôi ủng cao đến gần đầu gối. – Tôi có
mang theo bánh thánh cho bà. Nhưng nếu bà muốn xem lễ, tôi sẵn sàng làm lễ
trong vài phút. Có lẽ tôi không cần phải nhịn ăn lâu hơn. – Cha đã đối xử quá tối
với chúng tôi, thưa cha. Bà nói với một thái độ khá kiêu kỳ. Bà biết chính xác
là linh mục này, cũng như bao nhiêu linh mục khác đến với bà, không phải do
lòng kính trọng mà vì đồng tiền của bà. – Xin mời cha dùng trà – bà nói tiếp –
Tôi thấy cha làm lễ đã đủ. Cha Ralph cố che giấu những ác cảm của ông về người
phụ nữ lớn tuổi này. Rõ ràng, giáo khu này lý tưởng để cho ông rèn luyện lại. Nếu
có dịp thoát khỏi thời kỳ thất sủng mà ông đã rơi vào do tánh tình kỳ khôi của
mình, thì ông sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm cũ. Và nếu ông biết giữ gìn các
lợi thế sẵn có, bà già này có thể thỏa mãn những ước nguyện của ông. – Tôi phải
thú thật, thưa cha, năm vừa qua là một năm đặc biệt dễ chịu – bà ta nói. Cha là
người chăn dắt được hơn cha Kelly già rất nhiều, mong Chúa trừng phạt tâm hồn mục
nát của ông ấy. Bà nói những tiếng sau cùng giọng đanh lại, thù hằn. – Bà
Carson thân mến! Đó là một tình cảm không được nhân từ lắm. – Có thể đúng, nhưng
nó là sự thật. Ông ta chỉ là một lão già say rượu và tôi tin chắc rằng Chúa sẽ
khiến cho tâm hồn lão ta bị thối rữa y như sự thối rữa thân xác của lão ta. Bây
giờ tôi bắt đầu hiểu cha khá nhiều. Tôi nghĩ tôi có quyền đặt ra với cha vài
câu hỏi chứ? Nói cho cùng, cha coi Drogheda như nơi nghỉ ngơi của chạ Trang trại
này sẽ tạo điều kiền cho cha làm quen với chăn nuôi và hoàn chỉnh kỹ thuật cỡi
ngựa của cha, tránh những thăng trầm của đời sống ở Gillỵ Dĩ nhiên tất cả những
chuyện đó là do sự mời mọc của tôi, nhưng ngược lại tôi có quyền đặt ra một số
yêu cầu. Cha Ralph không thể nào chấp nhận được cái cách mà bà ta nhắc nhở ông
là người chịu ơn bà. Nhưng ông đoán biết sẽ có ngày bà ta đánh giá, gây ảnh hưởng,
chi phối mình, đủ để có thể đưa ra một số đòi hỏi. – Đúng thế, bà Carson. Tôi
có cảm ơn bà thế nào cũng không đáp lại được sự đón tiếp ở Drogheda và tất cả
những ân huệ … nào là ngựa, xe ô tô… – Cha bao nhiêu tuổi? – bà ta cắt
ngang. – Hai mươi tám.
–
Cha trẻ hơn tôi nghĩ. Dù sao người ta không gởi một linh mục như cha vào một
nơi như Gilly. Cha đã làm gì để bị người ta tống về đây, ở tận cùng thế giới? –
Tôi đã nhục mạ giám mục – ông trả lời một cách bình thản, nụ cười trên môi. – Ồ!
Nhưng tôi không thể tưởng tượng một linh mục có tài năng như cha lại có thể vui
thích ở cái hóc xó như Gillanbonẹ – Đó là ý muốn của Chúa. – Không đúng. Cha đến
đây do những sai lầm của con người…, của bản thân cha, và của vị giám mục của
cha. Chỉ có Đức Giáo Hoàng là không thể sai lầm mà thôi. Cha hoàn toàn bị tách
khỏi môi trường tự nhiên của mình ở Gilly; – mọi người đều nhận thấy điều đó, mặc
dù tất cả chúng tôi rất sung sướng có được một người như cha; sự kiện này đã
mang lại cho chúng tôi một sự thay đổi dễ chịu vì cho đến nay người ta đã gửi đến
đây những tên không ra gì lại mặc áo dòng – Cũng không cấm cản cái môi trường tự
nhiên của cha ở trong một phòng chờ nào đó đầy quyền lực giáo hội; chớ không phải
ở đây giữa ngựa và cừu. Màu đỏ tía Hồng y thật hạp với cha. – Tôi e rằng đó
không phải là vấn đề. Tôi không coi Gillanbone ở đúng ngay trung tâm lãnh thổ
dành cho người đại diện của Giáo Hoàng. Tôi may mắn gặp được bà ở tại Drogheda
này. Bà Carson đón nhận lời nịnh hót được tô đậm không khác lắm với sự dự tính
của người đã thốt ra. Bà thích thú về vẻ đẹp trai, sự ân cần của vị linh mục có
đầu óc sắc bén và tế nhị. Thật ra ông có thể là một Hồng y tuyệt vời. Trong cả
đời, bà không nhớ được khi nào đã gặp được một người đàn ông đẹp đến thế hoặc sử
dụng cái đẹp của mình một cách tài tình như cha Ralph. Ông ta biết rõ sức lôi
cuốn của mình: dáng dấp cao, thân mình cân đối, nét thanh và quý phái. Có thể
nói mỗi yếu tố của cái đẹp thể xác ấy đều kèm theo sự chăm chút cực kỳ cái bề
ngoài mà Chúa chỉ trao cho một số rất ít người. Từ mái tóc đen và mịn, đến màu
xanh đáng kinh ngạc của đôi mắt, bàn tay, bàn chân thanh nhã và cân đối, ông ta
thật hoàn toàn. Đúng thế, ông ta ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Thế nhưng
ông ta làm ra vẻ dè dặt như muốn chứng tỏ không bao giờ ông để mình nô lệ với
cái bề ngoài đẹp trai ấy. Cũng có thể ông ta sẵn sàng sử dụng sức lôi cuốn của
mình để đạt được điều mong muốn không chút ngại ngùng nếu ông xét thấy cần thiết
nhưng không hề tự mê hoặc. Bà Mary Carson thiết tha muốn biết điều gì đã đưa đẩy
vị linh mục cư xử theo cách đó. Thật lạ lùng. Có lắm linh mục đẹp như những
chàng Adonis trong huyền thoại, cộng thêm sức quyến rũ nhục dục của một Don
Juan. Có phải chăng họ chọn sự độc thân để lánh mình trốn tránh các hậu quả.
–
Tại sao cha lại chấp nhận cuộc sống ở Gillanbone? Tại sao cha không cởi bỏ áo
dòng mà phải theo đuổi một cuộc sống như thế này? Những năng lực trời phú cho
phép cha trở nên giàu có và uy quyền… Trước hết, cha đừng nói là cha dửng dưng
với ý niệm về quyền lực. – Bà Carson thân mến, bà là một tín đồ công giáo – ông
nói, mày nhíu lại – Bà biết rằng ước nguyện của tôi là thiêng liêng; tôi không
thể từ bỏ. Tôi sẽ mãi mãi là linh mục cho đến chết. Bà ta hít mạnh vào rồi cười
ngặt nghẽo. – Thôi đi, thôi đi! Bộ cha thật sự tưởng rằng nếu cha từ bỏ ước
nguyện của mình, cha sẽ bị một cơn sấm chớp, chó và súng đạn rượt đuổi? – Dĩ
nhiên là không. Cũng như tôi không tin bà có thể nghĩ rằng sự sợ hãi bị trừng
phạt sẽ giữ tôi lại con đường ngaỵ – Ồ! Cha đừng dùng những lời lẽ trịnh trọng
như thế. Thế thì cái gì ràng buộc cha? Cái gì đã buộc cha phải chịu đựng ở nơi
bụi bặm, nóng bức và đầy muỗi mòng như cái xứ Gilly này? Và nhất là cha có thể ở
lại đây vĩnh viễn. Một thoáng suy nghĩ xuất hiện trong đôi mắt màu xanh của vị
linh mục nhưng ông lại mỉm cười, nhìn bà Carson thương hại. – Quả thật bà còn sức
sống lắm – ông nói như thì thầm. Tôi đã chọn lựa trở thành linh mục khi còn ở
trong nôi. Làm sao tôi có thể giải thích điều đó với một phụ nữ? Phần nào đó
tôi là nơi thu nhận, thưa bà Carson, và nhiều lúc, tôi cảm thấy chúng tràn ngập
trong tôi. Nếu tôi là một linh mục xứng đáng hơn, sẽ không cần một thời kỳ chuyển
tiếp nào. Và cái trạng thái trọn vẹn, sự đồng nhất với Chúa không lệ thuộc ở một
nơi nào nhất định, dù tôi ở Gillabone hay giữa các bức tường trong một tòa giám
mục, ơn Chúa vẫn đến như nhau. Dĩ nhiên rất khó giải thích vì nó vẫn là điều
huyền bí, ngay cả với các linh mục. Có phải chăng chính là thế. Từ bỏ sự thiêng
liêng ấy? Tôi không thể từ bỏ được. – Như vậy, cha giải thích có thể giống như
một thứ quyền lực, phải không? Tại sao nó chỉ ban cho các linh mục? Điều gì làm
cho cha tin rằng chỉ cần một lần xức dầu thánh trong một buổi lễ dài và mệt mỏi
là đủ mang đến điều thiêng liêng ấy cho mọi người? Ông lắc đầu. – Phải nhiều
năm suy nghĩ trước khi được thụ phong, thưa bà Carson. Một tiến triển chậm đưa
đến một trạng thái tâm hồn mở ra cho Chúa ngự. Việc thụ phong tự nó xứng đáng
và mỗi ngày, chúng ta tỏ ra xứng đáng; đó là mục đích của khánh nguyện, bà thấy
không? Không một yếu tố thế tục nào, xen vào giữa người giáo sĩ và thiên hướng
của ông ta… kể cả tình yêu của người phụ
nữ
hay tiền bạc, hoặc sự ghê tởm phải khuất phục trước những mệnh lệnh của những
người khác. Sự nghèo khó không phải mới lạ đối với tôi, tôi không xuất thân từ
một gia đình giàu có. Tôi chấp nhận sự thanh khiết mà không thấy khó khăn lắm.
Còn sự phục tùng? Đối với riêng tôi, đó là điều khó nhất. Nhưng tôi tùng phục
vì rằng nếu tôi tự coi mình quan trọng hơn chức năng thừa sai của Chúa thì tôi
đã lạc hướng. Tôi phục tùng. Và nếu cần, tôi sẵn sàng chấp nhận Gillanbone suốt
đời. – Như thế thì cha là thằng ngốc – bà Carson vặn lại. Tôi cũng thế, tôi cho
rằng có nhiều điều quan trọng hơn là tìm cho mình một nhân tình. Nhưng tự cho
mình là nơi Chúa ngự, tôi không coi đó là một trong những điều quan trọng. Tôi
không bao giờ nhận ra được rằng cha lại tin ở Chúa với một nhiệt tâm như thế.
Tôi nghĩ ở cha cũng có sự hoài nghị – Ồ, tôi cũng thế thôi! Có con người lý trí
nào lại không hoài nghi! Chính vì thế mà có những lúc tôi trở nên trống rỗng.
Bà biết không, tôi nghĩ rằng tôi có thể từ bỏ mọi tham vọng, và bóp chết mọi
ham muốn để có hy vọng trở thành một linh mục hoàn toàn. – Sự hoàn toàn dù ở bất
cứ lĩnh vực nào cũng không thể chịu được, một thứ buồn chán thảm hại – Bà
Carson nhận xét – Riêng tôi, tôi thích và thích hơn nhiều một nét nào đó không
hoàn toàn. Cha Ralph cười, nhìn bà Carson với sự ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ. Một người
đàn bà đặc biệt. Sự góa bụa đến với bà cách đây 30 năm và đứa con duy nhất, đứa
con trai, đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Do hoàn cảnh đặc biệt của bà ở giữa
Gillanbone, bà đã không nhận lời bất cứ một người đàn ông nào hỏi cưới bà trong
số những người nhiều cao vọng nhất mà bà có quan hệ. Với tư cách vợ góa của
Michael Carson, bà là một bà hoàng không thể chối cãi. Nhưng với tư cách vợ của
một gã nào đó bà đành chuyển cả quyền lực của mình cho người mình chọn. Chính
vì thế mà bà từbỏ các khoái lạc xác thịt, thích cầm lấy cây gậy quyền hành hơn.
Thật khó tưởng tượng được bà ta lấy chồng ở cái xứ Gillanbone này vốn rất thích
cái món ngồi lê đôi mách, nói xấu. Thì đã ra sao. Biết đâu bà lại không đi ngược
lại cách xử thế lâu nay và trở nên nhân hậu, yếu đuối. Nhưng bây giờ bà đã khá
lớn tuổi và người ta biết rằng bà ở ngoài vòng cám dỗ xác thịt. Khi vị linh mục
trẻ tỏ ra cần mẫn trong các nhiệm vụ, bà có thể trả ơn ông bằng những món quà
nhỏ, như chiếc ô tô. Cử chỉ đó không hề bị coi là khiếm nhã. Là cột trụ không hề
lay chuyển của nhà thờ trong suốt cuộc đời, bà đã giúp cho xứ đạo và người dìu
dắt tinh thần đúng như điều nên làm, ngay cả khi cha Kelly say mèm lảo đảo
trong khi làm lễ. Bà không phải là người duy nhất quan tâm một cách đặc biệt người
thay thế cha Kelly; cha Ralph de Bricassart xứng đáng được lòng tất cả các con
chiên nghèo cũng như giàu. Nếu giáo dân ở xa nhất không có khả năng đến gặp ông
ở
Gillanbone
thì ông đến với họ và cho tới khi Mary Carson tặng cho ông chiếc ô tô Daimler,
ông di chuyển bằng ngựa. Sự kiên nhẫn và lòng tốt của ông khiến cho mọi người đều
biết ơn. Một số người yêu mến ông một cách chân thành; chẳng hạn như Martin
King ở Bugela đã trang hoàng lại rất tốn kém nhà xứ; Dominique O” Rourke ở
Dibbanđibban trả tiền lương hàng tháng cho người quản gia giỏi giang. Do đó, đứng
trên đài cao của tuổi tác và đơn vị, Mary Carson tự cho phép mình được hưởng mối
quan hệ thân mật với cha Ralph mà không hề sợ tai tiếng. Bà thích tấn công ông
bằng trí tuệ, con người mà bà đánh giá ngang mình về mặt này. Bà lấy làm thích
thú khi tìm cách xuyên thủng các ý nghĩ thầm kín của cha Ralph bởi vì bà chưa
bao giờ tin rằng mình đã hiểu rõ con người này. Minnie đẩy chiếc bàn có bốn
bánh xe nhỏ vào phòng, trên đó đặt trà và bánh ngọt. Mary Carson trao cho khách
bánh galét và lát bánh mì nướng. – Cha thân mến – bà nói sau một tiếng thở ra –
tôi mong cha sẽ cầu nguyện cho tôi với một sự nhiệt tình đặc biệt như sáng naỵ
– Bà hãy gọi tôi là Ralph. Tôi nghi ngờ về khả năng tôi cầu nguyện cho bà với một
nhiệt tình cao hơn mọi khi. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng. – Ồ, cha quả là người quyến
rũ! Nhưng nhận xét của cha không hồn nhiên như người ta tưởng. Nói chung, tôi
không quan tâm đến cái gì đương nhiên có, nhưng ở cha tôi không dám tin chắc rằng
điều đập vào mắt thật ra chỉ là cái phần chìm dưới nước của tảng băng; phần nào
đó giống như củ cà rốt mà người ta nhử trước con lừa. Thật sự cha nghĩ thế nào
về tôi, cha De Bricassart? Tôi sẽ không bao giờ biết được điều đó vì rằng cha
là người quá tế nhị phải không? Thật quyến rũ, quyến rũ… Nhưng cha nhớ hãy cầu
nguyện cho tôi. Tôi già rồi và phạm nhiều tội lỗi. Rồi bà Carson cười khúc
khích. – Tôi rất muốn biết được cha đã phạm tội như thế nào? Đúng thế, tôi rất
muốn biết. Trong lúc này, tôi đang thiếu một người quản lý. – Lại thiếu nữa? –
Có tất cả năm người lần lượt làm công việc ấy trong năm qua. Thật khó mà tìm được
một người tin cậy. – Nếu dư luận đồn đãi mà đúng thì rõ ràng bà không phải là một
người chủ quảng đại và tốt bụng đối với những người làm công. – Ồ sao lại ăn
nói trâng tráo thế – Mary Carson vừa nói vừa cười – Ai đã tặng cho cha chiếc
Daimler mới toanh để cho cha khỏi phải đi ngựa.
–
Ồ! Nhưng bà cũng thấy với nhiệt tình của tôi như thế nào khi cầu nguyện cho bà.
– Nếu Michael có được một chút trí tuệ và cá tính của cha, tôi tin rằng tôi đã
yêu anh ấy – Bà ta buông câu nói đột ngột (sắc mặt của bà đổi ngay và trở nên
cau có) có lẽ cha nghĩ rằng tôi không còn một người bà con nào ở trên cõi đời
này và tôi buộc phải để lại tiền bạc, đất đai cho Mẹ của giáo hội chúng ta? –
Tôi hoàn toàn không biết một tí gì – cha Ralph đáp lại một cách thản nhiên, tay
vừa châm trà vào tách. – Đây nhé, tôi vẫn còn một người em gia đình đông con phần
nhiều là con trai. – Bà quả thật rất may mắn – giọng cha Ralph nghiêm nghị. –
Khi tôi lấy chồng, tôi hoàn toàn không có một tài sản đất đai nào. Lúc đó tôi
biết rằng tôi không thể kiếm một tấm chồng khá giả ở Ailen nơi mà một cô gái muốn
câu được một ông chồng giàu phải có học và thuộc dòng dõi tiếng tăm. Cho nên
tôi đã làm ăn vất vả để dành dụm một số tiền đủ để đi đến một nước khác, ở đó
đàn ông giàu có và ít đòi hỏi hơn. Khi đặt chân lên đất này, tôi chỉ biết dựa vào
gương mặt dễ coi, vóc dáng và một bộ óc trên trung bình của mình. Như thế tôi
đã đóng đinh Michael Carson, một thằng giàu ngu độn. ông ta yêu tôi cho đến hơi
thở cuối cùng. – Còn người em của bà? – Cha Ralph vội vàng hỏi với hy vọng kéo
bà ta trở lại đề tài chính. – Em trai tôi Padraic nhỏ hơn tôi 11 tuổi. Vậy là hắn
đã 54 rồi. Chúng tôi là hai kẻ duy nhất của gia đình còn sống sót lại. Tôi biết
rất ít về em tôi vì khi tôi rời Galway nó vẫn còn quá nhỏ. Hiện nay em tôi sống
ở Tây Tây Lan. Nó đã bỏ xứ ra đi mưu tìm sự nghiệp nhưng lại không thành công.
Tối hôm kia lúc một trong những công nhân của tôi đến cho hay tên quản gia
Arthur Teviot đã chuồn với bọc quần áo của hắn, tôi chợt nghĩ đến Padraic, một
người sống chết với đất đai, nhiều kinh nghiệm nhưng không có điều kiện để trở
thành ông chủ. Thế thì tại sao tôi không viết thư cho em tôi và yêu cầu Padraic
đưa con cái đến đây làm ăn sinh sống – Tôi đã tự nói với mình, khi tôi chết, sẽ
cho nó thừa kế Drogheda và công ty Michael Limited vì nó là bà con gần nhất của
tôi, không kể vài người anh em bà con xa xôi còn ở lại Ailen. Bà cười và nói tiếp:
– Tại sao lại phải chờ đợi? Nó đến ngay bây giờ vẫn tốt hơn là khi tôi đã chết.
Ngay bây giờ nó có thể làm quen với công việc nuôi cừu trên những cánh đồng đất
đen mà theo tôi rất khác xa với các điều kiện ở Tây Tây Lan. Sau đó, khi tôi
không còn nữa, nó đã có thể mang đôi ủng của tôi một cách thoải mái Đầu hơi
nghiêng, bà quan sát rất kỹ cha Ralph.
–
Tôi tự hỏi tại sao bà không nghĩ đến chuyện này sớm hơn – Ralph chỉ nói thế. – Ồ,
tôi có nghĩ chứ! Tuy nhiên gần đây, tôi muốn tránh bằng mọi giá cái đám kên kên
chờ đợi một cách sốt ruột ngày tàn của tôi. Tôi có cảm giác là cái ngày của số
mệnh gần kề và tôi tin rằng… Ồ! Tôi không biết. Giá mà cái ngày ấy quanh tôi là
những người ruột thịt chắc là những người ruột thịt chắc là tôi sẽ dễ chịu hơn.
– Chuyện gì đã xảy ra, bà đang bệnh? Cha Ralph hỏi dồn đầy lo âu. – Tôi hoàn
toàn khỏe mạnh – Bà Mary Carson nhún vai – Tuy nhiên, vượt qua cái tuổi 65 cũng
có cái gì đáng lo ngại. – Tôi hiểu, và bà rất có lý. Chắc hẳn bà muốn được nghe
những giọng nói trẻ trung trong ngôi nhà này. – Ồ, họ không ở đây đâu – Bà
Carson kêu lên – Họ sẽ ở tại nhà dành cho quản lý, nằm bên con suối cách đây
không xa. Đặc biệt tôi không thích trẻ con, kể cả tiếng nói của chúng. – Phải
chăng làm như thế là keo kiệt với em trai duy nhất của bà? – Nó sẽ có gia
tài… vậy nó phải xứng đáng để được nhận cái gia tài đó! Bà Carson nói một
cách sòng phẳng. Fiona lại sinh thêm một đứa bé trai sáu ngày trước khi Meggie
kỷ niệm sinh nhật lần thứ chín. Bà coi đó là điều may mắn sau hai lần sẩy thai.
Chín tuổi, Meggie có thể giúp đỡ cho mẹ. Fiona đã bốn mươi – cái tuổi không còn
trẻ để sinh con mà không thấy cực nhọc và mất sức. Đứa con trai kém sức khỏe được
đặt tên là Harold, và đây là lần đầu tiên bà phải nhờ bác sĩ đến nhà chăm sóc
thường xuyên. Đúng là họa vô đơn chí, biết bao nhiêu khó khăn lại chồng chất
lên gia đình Cleary. Sau chiến tranh, thời kỳ phát triển vẫn còn là chuyện xa vời,
tệ hơn nữa các miền quê đang bước vào cơn khủng hoảng nên việc làm càng ngày
càng khó hơn. Lão Angus Mac Whirter một hôm mang đến cho gia đình bức điện lúc
buổi cơm trưa vừa xong. Hay tay run run. Pađy mở phong thư ra: một bức thư gởi
như thế thường không phải là những tin vui. Mấy đứa con trai tụ tập lại quanh
ông, chỉ trừ Frank cầm tách trà và rời khỏi bàn ăn. Fiona nhìn theo Frank rồi
quay nhìn ông chồng. Pađy lẩm bẩm gì đó. – Chuyện gì đó hở anh? Bà hỏi chồng
đang nhìn tờ giấy và ông trả lời như một tin báo tử. – Archibald không cần cha
con chúng ta – Bob đấm mạnh một cách tức giận xuống bàn. Anh đã quá hy vọng về
việc theo tập sự làm thợ cắt lông cừu mà khởi đầu là đàn cừu của Archibald. – Tại
sao hắn lại chơi mình một vố đau như vậy hở bả Đáng lẽ ngày mai chúng ta đã bắt
đầu.
–
Hắn không nêu ra lý do nào cả. Ba đoán chắc một tên vô loại nào đó đã hạ giá thấp
để “chặt co” dưới chân chúng tạ – Ồ, Pađy! Bà vợ thở ra. Đứa bé mà cả nhà gọi
là Hal bắt đầu khóc trong chiếc nôi đặt gần nhà bếp. Fiona chưa kịp quay lại
thì Meggie đã nhanh chân đến bên em. Frank vừa trở lại đứng gần cửa, vẫn tách
trà trên tay, anh nhìn cha một cách chăm chú. – Vậy thì bắt buộc tôi phải đi gặp
Archibald – Cuối cùng Pađy đã nói như thế – Bây giờ đã quá trễ để đi tìm một chỗ
có người thuê cắt lông cừu. Tôi cho rằng hắn phải giải thích với tôi rõ ràng.
Chúng ta chỉ còn hy vọng kiếm được công việc vắt sữa cho đến khi đến Willoughly
vào tháng bảy. Trong khi nhìn Meggie thay tã cho em, Frank trêu chọc: – Một người
mẹ nhỏ… – Ồ, đừng nói thế – Meggie bẻ lại, giận dỗi – Em chỉ giúp mẹ thôi
mà… – Anh biết – Frank gật đầu dễ thương – Em là một cô gái rất tốt, Meggie
bé nhỏ của anh. Nếu không vì Meggie và mẹ, Frank đã dứt khoát rời khỏi ngôi nhà
này. Anh nhìn cay độc về phía cha, người trách nhiệm chính về cuộc sống mới có
lắm xáo trộn trong gia đình. Vì đã lớn Frank không bị đuổi ra khỏi nhà lúc mẹ
sinh bé Hal, cho nên anh nghe tất cả những tiếng rên la khủng khiếp từ phòng mẹ
hôm Hal ra đời. Chưa có một người phụ nữ nào lại chịu một thử thách ghê gớm như
thế – anh đã lặp lại câu này cả ngàn lần. Một người đàn ông ích kỷ, không chịu
để cho vợ được yên. Meggie đặt Hal trở vào nôi và đến đứng bên cạnh mẹ. Lại một
cô gái mà cuộc đời sau này sẽ vứt đi – Frank chua xót thầm nghĩ. Cũng gương mặt
nghiêng nghiêng, sự nhạy cảm có cái gì đó của mẹ trong đôi tay, trong thân hình
nhỏ bé của Meggiẹ Cô bé sẽ giống mẹ rất nhiều khi trở thành một phụ nữ. Meggie
sẽ lấy ai làm chồng? Một thằng bặm trợn nào khác làm nghề cắt lông cừu người
Ailen hay một tên nào đó thô lỗ, dơ dáy, làm mướn tại một hãng sữa ở Wahine?
Con bé xứng đáng có một người chồng hơn thế nhưng gốc gác gia đình không cho
phép Meggie đòi hỏi cao hơn. Tình thế bế tắc, đó là điều mà ai cũng nói đến và
mỗi năm như khẳng định thêm lời tuyên án này. Đoán biết cái nhìn chăm chú của
Frank; Fiona và Meggie quay lại, cùng một lúc cả hai cười thật trìu mến, nụ cười
mà phụ nữ thường chỉ dành cho người mình yêu thương nhất. Frank đặt tách
trà
xuống rồi đi ra sân cho chó ăn, anh thèm được khóc hay giết người miễn là làm
sao vơi đi sự đau khổ. Ba ngày sau Pađy nhận được tin buồn từ Archibald thì thư
của Mary Carson đến. Ông mở thư ngay tại trạm bưu điện Wahine và trở về nhà vui
mừng nhảy nhót như một đứa trẻ con. – Chúng ta sẽ đi Úc! ông hét lên, tay giơ
cao những tờ giấy trắng mịn đắt tiền trước sự ngơ ngác của gia đình. Im lặng. Mọi
người nhìn ông. Sắc mặt của Fiona lộ nét băn khoăn, Meggie cũng thế, nhưng ánh
mắt của mấy đứa con trai thì đầy niềm vui. Mắt Frank sáng chói. – Nhưng này
Pađy, tại sao chị ấy bỗng nhiên nhớ đến anh sau bao nhiêu năm xa cách? – Fiona
hỏi chồng sau khi đọc lá thư. Từ lâu nay chị ấy vẫn giàu có và vẫn sống cô độc.
Thế nhưng có lúc nào bà ấy ngỏ lời giúp đỡ chúng ta đâu. – Hình như chị ấy sợ
chết một mình – Pađy nói để vừa xua đuổi nỗi lo sợ của mình vừa làm yên lòng
Fiona. Em có thấy chị ấy nói: chị không còn trẻ và gia đình các em là những người
thừa kế của chị. Chị nghĩ rằng chúng ta nên gặp nhau trước khi chị chết và đã đến
lúc em tập làm người quản lý của chị, đó là một cách đào tạo tốt. Các con của
em đã đến tuổi làm việc, cũng có thể tham gia có hiệu quả vào việc chăn nuôi.
Drogheda sẽ trở thành một kiểu làm ăn gia đình, điều khiển bởi gia đình, không
cần sự tiếp tay từ bên ngoài. – Chị ấy không nói gì đến chuyện gởi tiền cho
chúng ta đi à? Pađy ưỡn người lên vàdứt khoát: – Không bao giờ tôi chịu hạ mình
xuống xin xỏ chị ấy! Chúng ta có thể đến Úc mà không cần ăn mày tiền của chị ấy.
Tôi có một số tiền dành dụm lâu naỵ – Tôi nghĩ đúng ra chị ấy phải chịu cái khoản
chi phí này chứ – Fiona vặn lại không chịu bỏ quạ Sự bướng bỉnh của Fiona làm
ai cũng ngạc nhiên bở lâu nay ít khi Fiona nói năng như vậy. – Tại sao anh lại
từ bỏ cuộc sống của anh tại đây và đi làm việc cho chị ấy chỉ vì tin vào một lời
hứa trong thư? Chị ấy chưa bao giờ nhúc nhích một ngón tay để giúp chúng ta,
tôi không tin ở chị ấy. Tôi nhớ đã nghe chính anh nói về chị ấy. Tựu chung chị ấy
có những ngón tay cong quắp đáng tởm hơn cả bọn người bòn rút từng xu. Anh Pađy
à, dù sao thì anh cũng không biết rõ chị ấy; anh và chị ấy cách xa nhau về tuổi,
chị ấy đi lúc trước khi anh bắt đầu đi học kia mà. – Anh thấy điều đó chẳng ăn
thua gì. Và nếu chị ấy thuộc loại người bòn rút từng xu, lại càng tốt, vì như
thế chẳng qua là chúng ta sẽ được nhiều tiền hơn. Đừng kèo nài nữa Fiona à.
Chúng ta sẽ điúUc và chúng ta sẽ tự lo cho chuyến đi ấy.
Fiona
không nói thêm một lời. Trên sắc mặt bà không để lộ một nét nào để có thể biết
bà bị tổn thương hay không. – Hoan hô, chúng ta sẽ đi Úc! Bob ôm lấy vai cha
nói lớn. Jack, Hughie và Stuart nhảy múa lung tung còn Frank chỉ mỉm cười, mắt
nhìn xa xăm. Chỉ có Fiona và Meggie là buồn và lo ngại. Cả hai hy vọng rằng mọi
chuyện sẽ không đến đâu vì cuộc sống ở Úc chưa chắc sẽ dễ dàng hơn, bên ấy cũng
sẽ y hệt như ở đây mà lại thêm sự lạc lõng vì lạ xứ lạ người. – Gillanbone ở
đâu ba? – Stuart hỏi. Một tấm bản đồ thế giới cũ kỹ được đem ra. Mấy đứa con
trai mở to mắt nhìn những tờ giấy ngả màu vàng ố cho đến khi phát hiện ra New
South Wales, diện tích tương đương với Bắc đảo của Tây Tây Lan. Và kìa
Gillabone ở phía trên góc. – Đây là tấm bản đồ rất cũ, Pađy giải thích. Úc châu
giống như châu Mỹ, phát triển với những bước vĩ đại. Tôi tin chắc rằng cho tới
nay đã có nhiều thành phố được xây dựng. Pađy đi Wanganni để giữ tám chỗ nằm
trên tàu thủy Wahine. Phải mang mấy con chó cho hàng xóm, bán rẻ một số bàn ghế,
chỉ giữ lại một vài món mà Fiona cần thiết. Chén, dĩa, quần áo, sách vở và dụng
cụ nhà bếp đều được đóng thùng mang xuống tàu. Cuộc hành trình đúng là cơn ác mộng.
Trước khi tàu Wahine rời cảng Wellington, tất cả đã say sóng và cứ trong tình
trạng đó chịu đựng suốt một ngàn hai trăm hải lý trên mặt biển động với những
cơn gió mùa đông. Bốn tiếng đồng hồ sau khi rời Wellington, Frank và Meggie vẫn
luôn ở bên mẹ và em bé, tưởng đâu mẹ mình sắp chết. Người phục vụ trên tàu mời
một y sĩ từ những buồng hạng nhất xuống khám Fionạ ông ta đã lắc đầu bi quan. –
Mong sao cho cuộc hành trình sớm kết thúc – ông ta chỉ nói thế. Liền đó, ông ra
lệnh cho y tá tìm sữa cho đứa bé. Frank và Meggie vẫn cố gắng cho bé Hal bú nhưng
Hal không thiết tha lắm khi bình sữa được đưa vào miệng. Còn ba tiếng đồng hồ nữa
đến Sydney, biển đột ngột phẳng lặng như mặt gương. Meggie bắt đầu tỉnh lại, tưởng
tượng rằng chiếc tàu đang rên siết sau những đòn nhừ tử chịu đựng sóng gió.
Meggie không bao giờ quên những tiếng còi buồn bã rú lên trong sương mù, ấn tượng
đầu tiên khi đến Úc.
Pađy
đã bồng Fiona trên tay khi rời tàu Wahine, tiếp theo là Frank với em bé, Meggie
với một vali và mỗi đứa con trai bước đi chệnh choạng, lưng còng dước sức nặng
của một thứ nào đó. Họ đến Pyrmont – cái tên hoàn toàn vô nghĩa đối với họ –
vào một buổi sáng mùa đông đầy sương mù, cuối tháng tám 1921. Một hàng xe tắc-xi
nối đuôi nhau đậu trước bến tàu. Mắt Meggie mở to ra, miệng há hốc, đứng nhìn;
chưa bao giờ cô bé lại thấy lắm ô tô tập trung lại một nơi như thế. Pađy dồn được
cả nhà lên một chiếc tắc-xi. Tài xế gợi ý đưa họ đến khách sạn Cung nhân nhân.
– Nơi này thích hợp nhất cho gia đình ông bạn – hắn giải thích với Pađy. Đây là
một khách sạn dành cho công nhân do những người thuộc Đạo quân cứu thế quản lý.
Các con đường rộng đầy xe, chạy đủ hướng. Có rất ít ngựa. Chóa mắt, họ nhìn ngắm
những tòa nhà cao bằng gạch, ngạc nhiên về những bước đi tất bật của khách bộ
hành ở Wellington. Thủ đô Tây Tây Lan đã để lại dấu ấn đối với họ nhưng so với
Sydney thì nó chỉ như một thị trấn. Trong khi Fiona nghỉ ngơi ở một trong vô số
những phòng của khách sạn được gọi một cách trìu mến Cung nhân dân, Pađy đi đến
nhà ga trung tâm để hỏi giờ tàu lửa đi Gillanbone. Ngay tối hôm đó họ lại lên
tàu. Nếu không đi ngay chuyến này họ phải nằm khách sạn thêm một tuần nữa mới
có tàu đi Gillanbone. Trước khi lên tàu, Pađy đã đánh điện cho Mary Carson báo
trước tin họ sẽ đến vào chiều mai. Pađy tìm được một ngăn trống trên toa tàu hạng
ba cho cả gia đình. Những người lên sau ghé đầu vào tìm chỗ đều kinh hãi bỏ đi
khi thấy lúc nhúc trẻ con. Sáng hôm sau, mở choàng mắt ra, họ kinh ngạc và lo
âu trước cảnh vật hết sức lạ lùng ngoài sự tưởng tượng. Hóa ra có một nơi như
thế này trên trái đất hay sao? Vẫn là những thung lũng nhỏ có vẻ dịu dàng như ở
Tây Tây Lan nhưng không có chút gì gợi đến miền đất vừa bỏ đi. Chỉ có màu nâu
và màu xám, kẻ cả cây lá! Lúa mì mùa đông đã ngả sang màu bạc pha vàng hung dưới
ánh nắng dữ dội của mặt trời. Fiona nhìn cảnh vật không để lộ xúc động còn
Meggie thì nước mắt ràn rụa. Thật ghê tởm, mênh mông và không có một dấu vết của
màu. Gillanbone xuất hiện lúc ánh mặt trời sắp tắt. Một sự tập hợp đẹp mắt những
căn nhà gỗ với tôn dợn sóng đã cũ. Hai bên con đường chính đầy bụi bặm, không
có cây và buồn tẻ. Những tia sáng cuối cùng của mặt trời phủ lên một màu vàng
hào nháng, đem lại cho thị trấn cái uy thế ngắn ngủi mờ dần. Gia đình Cleary đứng
tại nhà ga mở to mắt nhìn. Nơi đây là một tập hợp dân cư trưng ở ngoài rìa cũng
những vùng đất đai khô cằn. Nơi cuối cùng của một vùng còn nhận được những trận
mưa không xa lắm về hướng Tây, bắt đầu ba ngàn cây số đất sa mạc.
Một
chiếc ô tô lộng lẫy đậu ở sân ga, một linh mục tiến đến gần họ bằng những bước
dài mà không cần chú ý đến lớp bụi dày. Chiếc áo dòng dài gợi nhớ hình ảnh của
quá khứ; hình như ông không đi trên hai chân như một người bình thường, mà lướt
nhẹ như trong một giấc mơ; xung quanh ông bụi tung lên từng đợt. – Xin mừng tất
cả đã đến bình yên, tôi là cha De Bricassart, vừa nói ông vừa đưa tay ra bắt
tay Pađy. Tôi không thể nào lầm, ông đúng là em trai của bà Mary, ông giống bà ấy
như hai giọt nước (ông quay sang nắm tay Fiona đưa lên môi với một nụ cước hết
sức chân thành. Hơn ai hết, cha Ralph nhận ra ngay, đó là một người phụ nữ đáng
kính). Bà rất đẹp – ông nói câu ấy như thể nhận xét vừa rồi của ông là chuyện tự
nhiên đối với một linh mục, rồi ông đưa mắt về phía anh em gia đình Cleary đang
tập trung ở một góc. Mắt ông dừng một lúc, ngạc nhiên nhìn Frank bế Hal trên
tay. Phía sau đám con trai, Meggie đứng nhìn cha Ralph, miệng hé mở, tần ngần một
chút như vừa chứng kiến sự xuất hiện của Chúa. Không quan tâm đến chiếc áo dòng
bằng vải mịn phết xuống đất, ông vượt qua đám con trai đến ngồi trước mặt
Meggie đặt hai bàn tay chắc rắn lên tay cô bé như dịu dàng che chở: – Thế nào!
Con tên gì? Cha Ralph hỏi với nụ cười. – Meggie – cô bé trả lời. – Em tôi, tên
Meghann – Frank xen vào hai mày nhíu lại tỏ vẻ bực mình con người dẹp trai và
cao lớn ấy. – Meghann là cái tên tôi ưa thích (ông đứng dậy nhưng vẫn giữ tay
Meggie trong tay mình). Tốt nhất là các bạn đến nghỉ đêm tại nhà xứ, ông vừa
nói vừa dẫn Meggie đến xe ô tô. Tôi sẽ đưa các bạn đến Droghela sáng mai; trang
trại quá xa nên sau một cuộc hành trình dài bằng tàu hỏa thế này, chúng ta chưa
thể đi ngay được chiều nay. Khách sạn Hoàng Gia, nhà thờ công giáo, trường học
của nhà thờ, tu viện và nhà xứ là những ngôi nhà bằng gạch hiếm hoi ở
Gillanbone; tất cả các nhà khác, kể cả trường lớn của thị xã, đều bằng gỗ. Bây
giờ bóng tối đã phủ trùm, trời trở lạnh không thể tưởng tượng; nhưng phòng
khách nhà xứ, ngọn lửa của lò sưởi đang cháy và từ một gian kế đó một mùi thơm
dịu dàng hấp dẫn thoang thoảng bay qua. Bà quản gia người Scotland da nhăn
nheo, miệng luôn nói. Đã quen với sự lạnh nhạt của các linh mục ở Wahine, gia
đình Cleary vẫn xa lạ trước vẻ hiền lành chất phác nổi bật ở cha Ralph. Chỉ có
Pađy là chậm, không có gì ngạc nhiên vì ông liên tưởng đến lòng nhân hậu của
các tu sĩ vùng Galway quê hương của ông vẫn thường có cách đối xử tốt với người
nghèo
khó.
Với ông, tôn giáo là hơi ấm và niềm an ủi; còn với những người khác trong gia
đình ông thì tôn giáo là một khái niệm ăn sâu đầy sợ hãi, là sự khép mình vào một
cách xử thế chệch ra ngoài nếu muốn tránh bị đày xuống địa ngục. Khi mọi người
đã về phòng, cha Ralph ngả người thoải mái trong chiếc ghế bành, mải mê nhìn ngọn
lửa, đốt một điếu thuốc và mỉm cười. Trong đầu ông hiện lại đầy đủ hình ảnh gia
đình Cleary, đúng như lần đầu ông đã gặp ở sân ga. Người đàn ông thật giống
Mary Carson, nhưng lưng còng vì làm lụng vất vả và rõ ràng không hề có nét thâm
hiểm của người chị. Vợ ông ta, đẹp, mỏi mệt, tưởng như vừa bước xuống từ trên
chiếc xe sang trọng được kéo bởi những con ngựa trắng. Frank, cau có, mắt đen,
thật đen; các đứa con trai khác giống cha, ngoại trừ đứa nhỏ nhất giống mẹ.
Stuart, thằng này lớn lên sẽ rất đẹp. Đứa bé còn bồng không thể biết nó sẽ ra
sao, và cuối cùng là Meggie. Đây là đứa con gái đẹp và đáng yêu nhất mà ông chưa
từng gặp. Màu tóc không thể nào mô tả được, không nâu mà cũng không vàng một sự
hòa hợp tuyệt vời của hai màu. Cô bé đã nhìn ông bằng đôi mắt xám ánh lên màu bạc,
con người trong suốt óng ánh như những viên ngọc. Nhún vai, ông ném điếu thuốc
vào lò sưởi và đứng dậy. Sáng hôm sau, ông đưa những người khách đi Drogheda.
Quen thuộc với cảnh vật dọc đường, bằng những nhận xét của mình, ông gây thích
thú cho những người ngồi trên xe. Hôm nay trời nóng bức, như hôm qua. Tất cả ngồi
chiếc Daimler tiện nghi gấp bội tàu hỏa. – Các con cừu ở đây sẫm quá! Meggie nhận
xét buồn bã; ánh mắt mất hút theo những chấm đỏ li ti mà người ta có thể đoán
là những cái mũi đang chúi xuống cỏ. – Ồ, tôi thấy đúng ra nên chọn Tây Tây
Lan, linh mục nói. Đó là một xứ giống như Ái Nhĩ Lan và nơi các con cừu đều có
một màu trắng sữa đẹp. – Vâng, ở đây giống Tây Tây Lan nhiều thứ – Pađy tiếp lời
– Ở đó cũng có một thứ cỏ xanh mướt, nhưng hoang dã hơn. Pađy có vẻ cảm tình
sâu đậm đối với cha Ralph. Đúng lúc đó, những con đà điểu tập hợp thành một đàn
đứng phắt chệnh choạng rồi bắt đầu chạy nhanh như gió, chân cao lỏng khỏng rất
khó nhìn rõ, cổ dài thẳng lên. Bọn trẻ con nín thở rồi cười rộ lên, thích thú được
xem những con chim to lớn chỉ chạy chớ không baỵ
Sau
những xúc động mà Úc châu nhanh chóng mang đến, trang trại Drogheda xuất hiện, gợi
cho họ nhớ đến một phần Tây Tây Lan với tiền sảnh của tòa nhà theo kiểu thời
vua George, những cây đậu chổi um tùm và hàng ngàn cây hồng. – Mình sẽ ở đây à?
Meggie hỏi. – Không hoàn toàn đúng như thế – Linh mục lên tiếng rất mau – Ngôi
nhà mà các bạn đến ở cách đây một kilomet rưỡi, phía dưới thấp một chút, cạnh
bên con suối. Mary Carson chờ họ trong phòng khách rộng thênh thang. Bà không
có một động tác nào để đón em trai mình; Pađy phải đến chỗ bà đang ngồi. – Thế
nào, Pađy? Bà hỏi nhỏ nhẹ nhưng mắt bà liếc nhìn qua phía cha Ralph đang bế
Meggie trên tay, hai cánh tay cô bé choàng lấy cổ chạ Mary Carson đứng dậy một
cách nặng nề, không chào Fiona hoặc bất cứ ai. – Chúng ta sẽ xem lễ tức thời,
bà nói. Tôi biết chắc cha Ralph rất nóng lòng đi ngaỵ – Không đâu bà Mary thân
mến (ông cười, mắt long lanh). Tôi sẽ làm lễ, rồi tất cả chúng ta sẽ dùng chung
một buổi cơm trưa ngon miệng và sau đó tôi sẽ chỉ cho Meggie cái nhà sẽ ở như
tôi đã hứa với cô bé. – Meggie? Mary Carson ngạc nhiên. – Vâng, đây là Meggie. Nhưng
chúng ta đã làm quen không đúng trình tự của nó, tôi xin giới thiệu cho đúng.
Bà Mary, tôi xin giới thiệu Fionạ Mary Carson bày tỏ sự đồng ý bằng một cái gật
đầu gọn lỏn và sau đó không chú ý đến mấy cậu con trai mà cha Ralph lần lượt gọi
tên. Bà quá chăm chú quan sát linh mục và Meggie. Nơi ở dành cho người quản lý
được xây theo kiểu nhà sàn bên cạnh con suối hẹp khoảng mười mét với hàng bạch
đàn hai bên bờ. So với sự nguy nga của tòa nhà bà Mary Carson, ngôi nhà có vẻ
trơ trọi nhưng nó cũng đủ những tiện nghi như căn nhà ở Tây Tây Lan. Đồ đạc bày
biện trong nhà theo kiểu thời Victoria, bên trên phủ một lớp bụi mỏng. – Các bạn
rất may mắn, có một phòng tắm trong nhà, linh mục dẫn đường phía trước vừa đi vừa
giải thích. Nhà xây trên các cọc khá cao vì vào mùa con suối lớn ra đột ngột, mực
nước lên rất cao, tôi nghe nói, có lần lên cao đến 17 mét trong một đêm. – Người
ở nhà này trước đây không được sạch sẽ lắm – Fiona nhận xét mấy ngón tay chạm
vào lớp bụi phủ trên tủ buýt-phê. Cha Ralph cười to lên.
–
Đừng có mong tẩy sạch lớp bụi này – ông giải thích – Nơi chúng ta ở thuộc vùng
bên trong và có ba thứ mà bà sẽ phải chịu: sự nóng bức, bụi và ruồi. Dù bà có
làm gì đi nữa cũng không đổi khác được. – Cha rất tốt đối với chúng tôi – Fiona
nhìn linh mục nói. – Cũng là chuyện bình thường thôi, hai ông bà là những bà
con duy nhất của người bạn tốt của tôi, bà Mary Carson. Không để xúc động,
Fiona nhún vai. – Tôi không quen duy trì những quan hệ thân thuộc với các linh
mục. Các linh mục ở Tây Tây Lan không can dự vào việc riêng của các con chiên.
– Bà không phải là người theo đạo công giáo? – Pađy theo đạo công giáo – Dĩ
nhiên, con cái cũng được dạy dỗ theo tôn giáo của anh ấy. Tất cả, cho đến đứa
cuối cùng… – Có phải vì thế mà bà không vừa lòng? – Với tôi hoàn toàn không
thành vấn đề. – Bà đã được… – Tôi không phải là kẻ đạo đức giả, thưa cha De
Bricassart. Tôi đã mất đức tin đối với chính tôn giáo của tôi và tôi không mong
muốn theo một tôn giáo khác cũng hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi. – Tôi hiểu.
Cha Ralph quan sát Meggie đang đứng ngoài hiên trước nhà và nhìn ra con đường dẫn
đến tòa nhà lớn Droghelạ – Con gái của bà đẹp quá. ông lại nói. Tôi vẫn đặc biệt
thích mái tóc màu vàng vơnidơ. Màu tóc ấy của cô bé sẽ khiến ngay cả danh họa
Le Titien cũng chạy tìm bút vẽ. Tôi chưa từng thấy màu tóc như thế bao giờ, có
phải đó là con gái duy nhất của bà? – Vâng. Cứ toàn là con trai, trong gia đình
của Pađy và của tôi cũng thế. Con gái rất hiếm. – Tội nghiệp cô bé, ông nói thầm,
nhưng chẳng hiểu tại sao.
CHƯƠNG
6
úc
đầu, những con số làm cho các thành viên của gia đình Cleary sững sờ. Drogheda
có một diện tích cả trăm ngàn hecta. Đường ranh dài nhất có tới 130 kilomet.
Sáu mươi lăm kilomet và 27 cái cổng rào ngăn cách căn nhà chính với Gillabone,
điểm dân cư duy nhất nằm trong vòng 150 kilomet. Pađy và các con trai như ở
trên mây. Có khi họ ở trên lưng ngựa nhiều ngày liền cách xa nhà nhiều kilomet.
Buổi tối, họ cắm trại dười bầu trời đầy sao khiến cho họ thỉnh thoảng tưởng như
mình đã hòa nhập cùng Chúa. Nhưng phụ nữ ở cái xứ này lại bị buộc chân ở nhà, họ
thấy cuộc đời không có gì thích thú. Họ không có điều kiện giải trí và cả lý do
để leo ngồi lên lưng ngựa. Vẫn là những công việc nhàm chán, dai dẳng như nấu nướng,
giặt đồ, quét lau, ủi quần áo, lo cho con nhỏ… Họ phải chịu đựng cái nóng bức,
bụi bặm, luôn thiếu người đàn ông để chở và bửa củi, bơm nước, mổ gà. Trời nóng
bức đến nghẹt thở, dù rằng còn đang ở đầu mùa xuân, hàn thử biểu trong mát lên
đến 30 độ. Trong nhà bếp nhiệt độ lên đến 47. Quần áo mặc nhiều lớp, may bó chặt,
trước đây để sử dụng ở Tây Tây Lan, nơi mà nhà luôn mát lạnh. Mary Carson đến
thăm căn nhà của cô em dâu mình với mục đích quan sát coi có được vệ sinh
không. Chiếc áo dài vải trúc bâu mà Fiona mặc bó sát lên đến cổ, đường viền
phía sau phết dưới đất. Trong khi Mary Carson thì mặc theo mốt mới. Chiếc áo
xoa màu kem chỉ dài đến bắp chân, tay rộng, thân không bó và cổ hở thấp. –
Fiona ơi, cô thật là cũ rích – Mary Carson nhận xét. Bà ta liếc nhìn phòng
khách, các bức tường được sơn lại màu kem; sàn nhà lót bằng những tấm thảm Ba Tư,
đồ đạc bày biện đắt tiền và tinh tế, khiến cho bà phải chú ý. – Tôi không có
thì giờ để có thể làm khác hơn – Fiona trả lời bằng giọng khô khan. – Cô có nhiều
thời giờ hơn ở đây, vì đàn ông thường vắng mặt. Hãy cắt ngắn chiếc áo lại, vất
đi những cái váy và cả coocxê, nếu không cô sẽ chết ngạt thở khi mùa hè đến.
Nhiệt độ có thể tăng lên khoảng một chục độ, cô có biết không? Mắt bà Mary dừng
lại bức chân dung của một phụ nữ đẹp, tóc vàng, ăn mặc mốt của Nữ hoàng Engénie
– Ai đây? – Bà vừa hỏi vừa đưa tay chỉ về bức vẽ. – Bà ngoại tôi. – Ồ, thật à?
Còn bàn ghế, các tấm thảm này ở đâu ra? L
–
Của bà ngoại tôi. – Ồ, thật à? Fiona thân mến của tôi, hình như cô vỡ mộng?
Fiona vẫn bình tĩnh, hai môi mím lại. – Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã lấy được
một người chồng đôn hậu, chị cũng cần biết điều đó. – Nhưng không có một đồng
xu. Họ riêng của em là gì? – Armstrong. – Ồ, thật à? Có phải là bà con phía
Roderick Armstrong? – Roderick là tên của anh cả tôi. Mary Carson đứng dậy, tay
chạm mạnh vào chiếc nón rộng vành để xua đuổi những con ruồi không biết kiêng nể
bất cứ ai. – Quả thật, cô sinh ra trong một gia đình khá hơn dòng họ Cleary,
tôi phải nhìn nhận điều này. Cô yêu Pađy đến mức nào mà bỏ tất cả như thế? – Điều
đó chỉ liên quan đến tôi – giọng Fiona nói đều đều – Nói không liên quan đến chị.
Tôi tránh nói về chồng tôi, kể cả với chị ruột anh ấy. Nếp nhăn hai bên mũi
Mary Carson càng rõ nét, bà trố mắt. – Cô dễ bị tự ái quá. Sau này Mary Carson
không đến nhà em dâu nữa nhưng bà Smith, quản gia của Mary Carson lại đến thường
xuyên và khuyên Fiona nên đổi thay cách ăn mặc. Trước khi chia tay, Mary Carson
nói: – Trong phòng tôi có một chiếc máy may ít khi sử dụng. Tôi sẽ bảo hai người
khiêng qua cho cô. Khi nào tôi cần, tôi đến đây sử dụng (Mắt của bà nhìn về
phía bé Hal đang nằm chơi trên sàn nhà). Tôi rất thích nghe tiếng trẻ con líu
lo, bà Cleary ạ. Meggie sống khá cô độc. Bọn con trai chỉ còn lại có Stuart ở
nhà. Jack và Hughie theo cha để học nghề chăn cừu, Stuart không có nhiều thì giờ
ở bên cạnh Meggie như những anh trai khác. Cậu ta sống với thế giới riêng vốn
không ồn ào, thích ngồi hàng giờ quan sát đàn kiến nối đuôi nhau hơn là leo
trèo trên cây, trò chơi mà Meggie rất thích, nhất là trèo trên những cây bạch
đàn Úc châu đẹp tuyệt. Tuy nhiên Meggie và Stuart không phải lúc nào cũng có
thì giờ dư dả để nhìn kiến và leo cây, cả hai phải làm việc rất dữ: bửa củi và
khiêng củi, đào hố rác, trồng rau trong vườn, chăm sóc gà vịt và heo. Cả hai
cũng được học để biết cách giết rắn mặc dù vẫn rất sợ chúng.
Mấy
năm gần đây mưa rất ít, suối cạn nước, những bồn chứa chỉ còn phân nửa. Cỏ còn
đẹp nhưng không thể so sánh với lúc hoa lá xanh tươi. – Có lẽ tình hình sẽ tệ
hơn – Mary Carson nói với giọng chán nản. Những người dân ở đây phải trải qua nạn
lụt trước khi đối đầu với nạn hạn hán dữ dội. Vào giữa tháng giêng, cái gió mùa
hướng Bắc – Tây thổi qua vùng này. Những ngọn gió lớn đổi hướng bất thường mặc
sức hoành hành. Có khi chỉ những điểm xa nhất phía Bắc của lục địa chịu những
trận mưa hè như thác; có khi, những trận mưa ấy tràn xuống phía dưới, làm cho
mùa hè trở nên ẩm ướt. Năm đó, vào tháng giêng, mây đen nghịt bị những cơn gió
xé toạc ra từng mảnh. Mưa bắt đầu đổ xuống, hồng thủy, trời đất gầm rú liên tục.
– Gió mùa tới. Blue Williams, người chở mướn qua nhiều vùng ghé lại Droghela, vừa
vấn thuốc hút vừa nói – Sông Cooper, sông Barcoo, và sông Diamantia phình to
ra, còn sông Overflow vỡ bờ. Cả vùng bên trong Queensland sẽ ngập dưới 60
centimet nước; phải rất khó khăn nếu muốn tìm ra một nơi cao để bảo vệ đàn cừu.
Bỗng chốc mưa đến. Pađy và các con trai làm việc thật vất vả để đưa các đàn cừu
rời khỏi những vòng rào phía dưới. Cha Ralph đến tiếp tay rất nhiệt tình. ông
thắng yên ngựa và đi cùng Frank, với những đàn chó săn giỏi nhất để di chuyển
đàn súc vật về những khu đất rào kín gần rìa con sông Barwon. Trong khi đó Pađy
và hai người làm công, mỗi người có một cậu con trai đi theo lại chạy về hướng
khác. Cha Ralph trông chẳng khác một nhà chăn nuôi sành sỏi. ông cỡi con ngựa sắc
hồng thuần chủng – quà tặng của bà Mary Carson – mặc quần da, chân mang giày bốt
bóng loáng, thân người chắc nịch bó sát trong chiếc áo màu trắng tinh, tay áo xắn
lên cao, cổ áo mở rộng để lộ ra phần ngực rám nắng. Còn Frank thì mặc quần dài
bạc màu, ở phía dưới đầu gối được bó lại bằng những mảnh da cănguru, người anh
mặc một chiếc áo ngắn sát nách bằng nỉ mỏng màu xám, khiến Frank trở nên nghèo
nàn bên cạnh cha Ralph. Quả thật là thế – Frank, nhếch mép nghĩ thầm – nhìn
theo cái dáng người thẳng của cha Ralph trên lưng con ngựa cái nhanh nhẹn xuyên
qua cây thông và hoàng dương bên kia con suối nhỏ. Con ngựa của cha Ralph lông
đốm, một con vật tính khí dữ dằn, bướng bỉnh, luôn tỏ ra căm ghét đồng loại. Được
kích động, bầy chó chạy tứ tung, sủa loạn lên và cắn lẫn nhau. Răng nanh của chúng
nhe ra bắt buộc cha Ralph phải vung những đường roi để trấn áp. Không có gì là
không thể làm được ở con người này. ông biết cả huýt gió để ra lệnh đàn chó trở
lại nhiệm vụ và sử dụng ngọn roi khéo léo hơn cả Frank.
Khi
trời nhá nhem tối, cha Ralph và bầy chó, với sự tiếp sức không có hiệu quả mấy
của Frank đã đưa được đàn cừu đến bãi đất thứ nhất, thường thì công việc ấy phải
mất nhiều ngày. Linh mục vừa tháo yên ngựa ở một lùm cây gần bãi đất thứ hai,
hào hứng cho rằng họ có thể lập lại thành tích đưa đàn cừu đến một bãi khác trước
khi trận mưa ào tới. Mấy con chó nằm trên cỏ, lưỡi thòng ra, tìm cách ve vãn
cha Ralph. Frank kéo ra từ trong túi trên lưng ngựa những miếng thịt cănguru bầy
nhầy và quẳng cho nó. Chúng cắn nhau giành giật. – Đồ súc vật! Frank nói lầm bầm.
Chúng nó không như loài chó nhà. Đúng là những con chó rừng. – Theo tôi nghĩ có
lẽ chúng gần gũi với điều Chúa muốn hơn so với chó nuôi trong nhà. Cha Ralph
nói lại nhẹ nhàng. Nhanh nhẹn, thông minh, hung hăng, phần nào thuần hóa. Tôi vẫn
thích chúng hơn là chó nuôi làm bạn. Mèo cũng thế – Anh có nhận thấy, những con
mèo lảng vảng xung quanh nhà? Hoang dại và hung dữ không thua những con beo;
chúng không cho người đến gần. Nhưng chúng săn chuột tuyệt vời và không cần ai
nuôi. Cha Ralph lấy ra từ trong túi đặt trên lưng ngựa một miếng thịt cừu đông
lạnh và một gói bánh mì, bơ. Cắt một miếng thịt trao cho Frank, ông để bánh mì
và bơ giữa hai người, trên một khúc cây đốn ngã. Ông cắn vào miếng thịt ngon
lành. Cả hai cùng uống nước trong một túi da và vấn thuốc hút. – Này Frank,
hình như anh không vui? Cha Ralph hỏi với một tiếng thở ra, tay vấn điếu thuốc
thứ hai. Frank ngồi cách linh mục khoảng một mét rưỡi; anh quay phắt đầu lại,
nhìn cha Ralph với vẻ dò xét. – Hạnh phúc là thế nào? – Anh có thể tìm ra một
thí dụ. Cha và các em của anh đều rất hạnh phúc, ít ra lúc này. Nhưng anh thì lại
khác. Mẹ anh cũng thế và cả em gái Meggie của anh đều không thích Úc châu? –
Tôi không thích vùng này. Tôi muốn đi Sydney; ở đó tôi hy vọng có lối thoát. –
Sydney. Đó là một nơi dễ sa ngã – Cha Ralph cười nói. – Tôi cóc cần! Ở đây tôi
cũng lại bị kẹt cứng như ở Tây Tây Lan. Tôi muốn trốn khỏi ông ấy. – Ông ấy?
Frank nói một cách đột ngột và từ chối nói thêm. Nằm ngửa, Frank ngước mắt nhìn
lên tán cây. – Anh bao nhiêu tuổi, Frank? – Hai mươi hai.
–
Ồ, tất nhiên! Có lần nào anh xa gia đình chưa? – Chưa. – Anh có đi khiêu vũ lần
nào chưa? Chắc đã có? – Chưa. – Thế thì ông ấy sẽ không giữ được anh lâu. – Ông
ta sẽ giữ tôi đến chết. Cha Ralph ngáp dài và chuẩn bị ngủ. – Chúc ngủ ngon –
ông nói trong miệng. Hôm sau dù mây vần vũ nhưng trời vẫn chưa mưa và hai người
đã giải tỏa được bãi chăn thứ hai. Mưa bắt đầu đổ xuống và buổi chiều lúc Frank
và linh mục phi ngựa đến chỗ cạn của đoạn suối gần nhà. Nhưng khi qua bên kia bờ
thì người và ngựa không thể lên cùng lúc vì dốc đứng và trơn trợt. Họ phải để
ngựa lên trước, cả hai còn lại leo lên tuột xuống mấy lượt. Nhờ thấy hai con ngựa
không có chủ về nhà, Pađy đoán ra chuyện không hay của hai người. Ông đến bên bờ
suối với dây thừng kéo cha Ralph và Frank lên. Pađy mời cha vào nhà thay quần
áo ấm nhưng cha cười lắc đầu từ chối. – Mọi người đang chờ tôi ở Nhà Lớn – ông
nói. Mary Carson nghe tiếng cha Ralph gọi cửa trước khi đám gia nhân nghe thấy.
Ông đã đi vòng ra phía trước tòa nhà dự tính đi thẳng vào phòng. – Cha không thể
vào nhà trong tình trạng này, người lấm bê lấm bết – Bà Mary Carson đứng trong
hiên nói với Ralph. – Vậy xin bà đưa giúp tôi mấy cái khăn và chiếc valị Không
chút ngượng nghịu, bà quan sát cha Ralph trong khi ông cởi áo, cởi giày bốt.
Ông tựa vào cửa sổ phòng khách dùng khăn để lau bùn. – Cha là người đàn ông đẹp
nhất mà tôi được nhìn, Ralph ạ – Tại sao có lắm linh mục đẹp như thế. Phải
chăng vì có dòng máu Ái Nhĩ Lan. Tất nhiên, đó là một dân tộc đẹp, những người
Ái Nhĩ Lan. Có phải những đàn ông đẹp đi làm linh mục để thoát khỏi sự quyến rũ
của chính họ. Tôi đánh cuộc với cha rằng tất cả thiếu nữ ở Gilly đều ao ước
cha. – Từ lâu tôi có thói quen không để ý đến các cô gái si tình – ông trả lời
vui vẻ – Bất cứ linh mục nào dưới 50 tuổi đều co thể là mục tiêu của một số các
cô và một linh mục dưới 35 thì dứt khoát các cô phải mê rồi. Nhưng chỉ có các
cô gái theo đạo Tin lành là muốn chinh phục tôi một cách công khai.
–
Cha không trả lời thẳng câu hỏi của tôi. Mary Carson đứng thẳng người lên, đến
sát cha Ralph đặt lòng bàn tay của mình lên ngực linh mục và giữ nguyên ở đó. –
Sự đòi hỏi của phụ nữ có làm cha ray rứt không, cha Ralph? – Không, ông trả lời,
đầu ông ngả về phía sau trong một động tác bày tỏ sự khinh miệt. – Với đàn ông
thì có lẽ? – Còn tệ hơn phụ nữ. Không, không có đòi hỏi nào giày vò tôi. – Hay
cha chỉ yêu chính cha mà thôi? – Càng ít hơn bất cứ ai. – Thật lý thú. Bà đi
vòng quanh cha Ralph và quan sát linh mục. Ralph, Hồng Y De Bricassart – giọng
Mary Carson mỉa mai. Đầu tháng hai, cuộc sống thay đổi đột ngột với Meggie và
Stuart. Cả hai được gởi đi học nội trú ở tu viện Gillabone vì không có trường
nào gần hơn. Pađy cho biết khi tới tuổi, Hal sẽ học theo phương pháp hàm thụ của
trường trung học Blacfriard ở Sydney. Còn bây giờ vì Meggie và Stuart quen học
với thầy nên phải gởi đi học ở tu viện Saint Croix, tiền nội trú được bà Mary
Carson chi rộng rãi. Còn Jack và Hughie sẽ không đi học nữa, Drogheda cần chúng
và cả hai đều thích sống với đất đai. Meggie và Stuart trải qua một cuộc sống
êm đềm ở tu viện Saint Croix, rất khác so với những ngày chúng học Trường Thánh
Tâm ở Wahine. Cha Ralph đã tế nhị cho các nữ tu biết ông bảo trợ cho hai đứa bé
và khéo léo nhắc đến người cô của chúng là một phụ nữ giàu nhất ở New South
Wales. Do đó mà sự rụt rè của Meggie được xem như một đức tính tốt và cuộc sống
tách rời, cô độc của Stuart, thói quen nhìn vào khoảng không, giờ này sang giờ
khác, lại được coi là thánh thiện. Cha Ralph thường đến thăm Meggie và Stuart,
đón cả hai về nhà xứ đều đặn đến nỗi ông quyết định cho sơn căn phòng được dành
cho Meggie – bằng màu xanh dịu – ông cho treo màn mới và thay khăn trải giường.
Stuart thì tiếp tục ngủ trong căn phòng trước đây sơn màu kem bây giờ ngả sang
màu nâu. Cha Ralph không hề tỏ ra quan tâm Stuart ở đây có vui không. Sự hiện
diện của Stuart là phụ thuộc, cậu ta được mời về chỉ do sự tế nhị bắt buộc mà
thôi. Cha Ralph cũng không biết tại sao ông lại mến Meggie đến thế, và trong
thâm tâm ông cũng không khi nào tự hỏi về điều này . Đầu tiên ông cảm thấy thương
hại cô bé khi nhìn thấy lần đầu ở sân ga đầy bụi, Meggie đứng tách riêng một
mình, có lẽ vì là con gái duy nhất trong gia đình.
Ông
kết luận như vậy. Nhưng ngược lại, linh mục không lưu tâm đến Frank cũng đứng một
mình ngoài vòng gia đình; ông không hề thương hại cậu thanh niên ấy. Còn
Meggie, cô bé làm cho linh mục xúc động sâu xa mặc dù ông không biết tại sao.
Màu tóc của Meggie khiến cho ông bị mê hoặc. Màu và hình dáng của đôi mắt làm
nhớ đến đôi mắt rất đẹp của Fiona, nhưng dịu dàng gấp bội và đáng yêu hơn. Và
tính tình của Meggie theo ông đó là cái tính lý tưởng của người phụ nữ: thụ động,
nhưng kiên quyết trước mọi thử thách. Không có sự nổi loạn ở Meggie, trái lại,
cả đời Meggie sẽ khuất phục, chấp nhận sống bên trong những ranh giới của số phận
người phụ nữ. Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đó làm Ralph quý mến
Meggie; mà trong sâu xa, tình cảm đối với cô bé này xuất phát từ một pha trộn của
thời gian, nơi chốn và cá tính. Không ai coi cô bé ra gì, điều đó gây nên một
khoảng trống trong cuộc đời của Meggie, cái khoảng trống ấy ông có thể làm đầy
và chắc chắn sẽ nhận được tình thương của cô bé. Meggie lại là một đứa trẻ con
và như thế không gây nên lời ra tiếng vào nào cho lối sống và tiếng tăm của linh
mục. Cô bé rất đẹp và ông say mê với cái đẹp ấy . Điều đó khó có thể chấp nhận,
cô bé đã lấp cái khoảng trống của cuộc đời ông, cái khoảng trống mà Chúa của
ông không thể lấp được, vì rằng cô bé có một sức hấp dẫn và một nhân cách rõ
nét. Để không gây sự khó chịu cho gia đình Cleary khi ông thường xuyên tặng quà
cho Meggie, ông đã dành tất cả thời gian mà ông có thể có được – thời giờ và cả
tâm trí – để trang hoàng căn phòng của Meggie ở trong nhà xứ, với mục đích được
thấy cô bé vui, hơn là để có một nơi để đặt viên ngọc quí Meggie.
CHƯƠNG
7
rank
không về nhà từ mười lăm ngày nay. Anh ta theo người chăn nuôi già tên Peter
Cái Thùng, với đàn chó, hai con ngựa, một chiếc xe nhỏ do một con ngựa tồi kéo
dùng để chở đồ dự trữ, họ đến những vùng bãi chăn cừu xa nhất về hướng Tây đưa
cừu về. Công việc mất thời giờ, chậm chạp và nhạt nhẽo không như việc tập hợp cừu
vội vã vào thời điểm sắp sửa có lụt. Nơi cắt lông cừu chỉ có thể nhận cùng một
lúc mười ngàn con vì vậy khâu tuyển lựa rất cần thiết. Khi Frank bước vào nhà bếp,
anh gặp ngay mẹ đứng bên bể rửa chén dĩa, vẫn lúi húi vào thứ công việc không
bao giờ kết thúc: gọt khoai. – Mẹ ơi, con về rồi! Anh vui mừng báo tin. Bà quay
lại Frank, ngạc nhiên nhìn lên; hai tuần lễ xa nhà cái nhìn của anh sắc hơn. –
Trời ơi…! Frank lầm thầm trong miệng. Trong đôi mắt của Fiona không thấy có
niềm vui gặp lại con, gương mặt đỏ lên xấu hổ, hai tay bà đặt lên tạp dề độn
tròn như để che giấu điều mà áo quần không thể che được. – Con dê già ấy thật gớm
ghiếc! Frank kêu lên, tay chân run rẩy. – Frank! Mẹ không cho phép con được nói
như thế. Con lớn rồi. Con phải hiểu biết. Chính con cũng chào đời bằng kết quả
như thế. Điều này không có gì xấu xa; khi con chửi cha con, con đã chửi cả mẹ rồi
đấy! – Ông ta không có quyền! Đáng ra ông ta phải để mẹ yên. Frank chống chế lại,
miệng rít lên sùi bọt mép. – Không xấu xa đâu, Frank – bà lặp lại bằng giọng mỏi
mệt và nhìn Frank bằng đôi mắt sáng trong – không xấu xa đâu, Frank, không xấu
xa hơn hành động để cho một đứa trẻ sinh ra đời. Lần này thì Frank đỏ mặt lên.
Anh không dám nhìn thẳng mẹ; anh nhìn đi nơi khác rồi về phòng chung với Bob,
Jack và Hughie. Mấy bức tường trống trơn, những chiếc giường chật như trêu chọc
Frank, bêu riếu sự có mặt của anh; đây là nơi ngủ buồn tẻ của Frank, không có
người nào khác để gây hơi ấm và cũng chẳng có chút gì gọi là thiêng liêng. Và
lúc ấy trong anh hiện lên gương mặt của mẹ, nét đẹp mệt mỏi, với quầng sáng của
mái tóc vàng óng ánh tỏa ra như một vầng hào quang, sung sướng vì cảm nhận
trong bụng mình cái kết quả đã cùng con dê già lông lá cấu tạo giữa cái nóng oi
bức của mùa hè. Anh ta không thể xua đuổi nỗi ám ảnh ấy, không thể tách rời mẹ
với những suy nghĩ đen tối đang vây hãm mình. Rồi những đòi hỏi tự nhiên của lứa
tuổi và sự sung mãn của người đàn ông đã F
dậy
lên ở anh ra. Bình thường, Frank xua đuổi được những ý tưởng ấy khỏi đầu óc nhưng
khi mẹ anh ta phô bày ra trước anh sự hiển nhiên của chuyện dâm dục, và cái
hành vi bí ẩn đã thực hiện với con thú già đa dâm ấy thì… Làm sao Frank có thể
chấp nhận được, chịu đựng được? Frank mong muốn nghĩ về mẹ như một người hết sức
thánh thiện, trong trắng như Đức Mẹ đồng trinh, một người phụ nữ vượt lên trên
hành động tầm thường mặc dù tất cả phụ nữ, ở khắp thế gian, đều phạm tội ấy. Cảm
thấy mẹ đánh mất cái ý tưởng đẹp mà anh vốn trân trọng, Frank phát điên lên. Để
đầu óc được bình tỉnh, Frank cần phải tưởng tượng rằng mẹ mình nằm kế bên lão
già ghê tởm ấy trong sự trong trắng hoàn toàn, chỉ để ngủ, và trong đêm cả hai
không quay mặt lại nhau, cũng không hề chạm nhau – Trời ơi! Tiếng lanh lảnh của
kim loại khiến Frank nhìn xuống; anh nhận ra là mình đang bóp vẹo cái thanh sắt
giường. – Tiếc quá, mày không phải là cha tao! Anh nói với thanh sắt. – Frank,
Fiona đứng ở cửa phòng gọi Frank. Anh ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt đen, sáng quắc,
nhưng ướt đẫm như hòn than dưới mưa. – Trước sau gì con cũng giết ông ta – giọng
Frank gầm gừ. – Và rồi con sẽ giết luôn mẹ chứ gì! Fiona vừa nói vừa đến ngồi
bên Frank. – Không, con sẽ giải thoát mẹ! Frank đáp lại, giọng sôi nổi, lòng
nung nấu bởi một hy vọng điên rồ. – Frank à, mẹ sẽ không bao giờ được tự do.
Hơn nữa mẹ cũng không muốn được tự do. Mẹ muốn tìm hiểu sự mù quáng của con từ
đâu mà ra, vậy mà mẹ không thể hiểu được. Nhưng có điều chắc là không phải từ mẹ,
mà cũng không từ cha con. Mẹ biết con không có hạnh phúc, nhưng tại sao con
trút tất cả lên mẹ và cha? (Bà nhìn hai tay mình, rồi nhìn lên Frank). Đáng lý
mẹ không nói điều này với con, nhưng mẹ nghĩ cần phải nói. Frank à, đã đến lúc
con cần có người bạn gái, để sau này xây dựng một mái ấm gia đình. Drogheda
không thiếu chỗ đâu; về chuyện này mẹ không âu lo cho các em con; các em con bản
tính không giống con. Nhưng còn con, con cần một người vợ. Frank à. Khi có vợ,
con không có thời giờ để nghĩ đến mẹ nữa. Frank ngồi quay lưng lại mẹ, anh
không muốn phải nhìn thẳng vào mẹ. Hơn năm phút đã trôi qua, bà vẫn ngồi trên
giường với hy vọng Frank sẽ nói điều gì đó, nhưng rồi bà thở dài, đứng lên và rời
khỏi phòng.
CHƯƠNG
8
Sau
khi các thợ cắt lông cừu đã đi, lúc mà cả vùng trở lại sự yên tĩnh bình thường
của mùa đông thì ngày lễ hàng năm của Gillanbone lại đến. Cuộc vui kéo dài hai
ngày, Fiona cảm thấy không khỏe lắm nên không tham dự, còn Pađy phải lái xe
Rolls Royce đưa Mary Carson lên tỉnh. Mọi người đều dự các cuộc vui. Mấy đứa
con trai của Pađy, trước khi được đi theo Peter Cái Thùng, đều bị hăm dọa đủ điều
nếu ai đó gặp chúng phá phách. Riêng Frank đi thật sớm, một mình trên chiếc ô
tô Ford. Tất cả người lớn đều ở lại đến ngày mai để dự cuộc đua ngựa. Bà Mary
Carson, vì những lý do riêng, đã từ chối lời mời của cha Ralph đưa bà đến nghỉ
đêm ở nhà xứ, nhưng ngược lại nằng nặc bảo Pađy và Frank nhận lời cha Ralph.
Sau khi đưa chị đến khách sạn Hoàng Gia, Pađy xuống quầy rượu và gặp Frank, tay
cầm một cốc bia. – Ba đãi con sau – Pađy nói nhỏ nhẹ với con – Ba phải đưa cô
Mary đi ăn cơm trưa ngoài trời trước khi đi xem đua ngựa và ba cần được thoải
mái trước khi phải chịu đựng một cuộc thử thách với cô Marỵ Thói quen và sự sợ
sệt khó vượt qua hơn là ta vẫn thường nghĩ khi định thoát ra khỏi sự chi phối của
nó – Frank nói với mình. Anh ta tự thấy không thể để hành động theo ý mình,
không thể trút cả cốc bia vào mặt cha, nhất là trước mặt đông đảo những khách tấp
nập quanh quầy. Anh đành nuốt ực phần bia còn lại, mỉm cười và lườm lườm nói: –
Rất tiếc ba; con có hẹn với mấy thằng bạn ở chỗ lễ. Meggie với hai bím tóc
thòng xuống quá vai, mặc bộ đồng phục màu xanh nữ sinh nội trú trường Saint
Croix, theo sau một bà xơ, đi băng qua bãi cỏ của tu viện để đến nhà xứ. Tại
đây bà xơ giao Meggie cho bà quản gia của cha Ralph; bà này rất yêu thương
Meggiẹ – Tôi yêu con bé này vì mái tóc của nó ngọt ngào như rượu tiên – bà ta
giải thích Ralph ngạc nhiên về sự say mê đó. Annie – bà quản gia – không ưa đám
con gái và thường than phiền nhà xứ ở quá gần trường học. – Thôi đừng giải
thích lung tung bà Annie ạ. Tóc là thứ vô giá trị. Bà không thể yêu một con người
duy nhất chỉ vì màu tóc – Cha Ralph ghẹo bà. Lúc đó Frank vào, cơn xúc động sau
khi gặp cha mình tại quầy rượu, đầu óc rối loạn. – Meggie đi với anh, anh đưa
em đi hội chợ – vừa nói vừa đưa tay ra.
–
Hay là cha sẽ đưa cả hai cùng đỉ Cha Ralph đề nghị. Hai bàn tay nhỏ bé của
Meggie siết chặt hai tay của hai người đàn ông mà cô bé tôn kính. Meggie thấy
mình ở bảy tầng mây. Hội chợ tổ chức ở bên bờ sông Barson, bên cạnh trường đua
ngựa. Thái độ cha Ralph chăm sóc Meggie làm nhiều thiếu nữ ghen ghét, nhất là
hoa khôi Carmichael muốn chinh phục cha. Đi ngang một vũng nước, trong khi hoa
khôi Carmichael lúng túng với chiếc áo dài phết đất, chờ đợi một cử chỉ galăng
của cha Ralph, thì linh mục lại quay sang bế Meggie một cách ân cần. Ở đầu bãi
đằng xa, một cái lều to sừng sững, trước lều một sàn gỗ, sau lều treo một tấm vải
với nhiều hình vẽ dữ tợn như muốn hù dọa đám đông. Một đám người cầm máy phát
âm, nói to với những người hiếu kì đang tụ tập lại. – Thưa các ngài, đây là
đoàn võ sĩ nổi tiếng Jimmy Sharman! Tám nhà vô địch ưu tú nhất thế giới, sẽ có
một khoản tiền thưởng cho bất cứ ai trong quí ngài muốn thử thời vận. Các nhà
vô địch đứng trên sàn gỗ cười nói với nhau tự nhiên và rất tự tin, xem chuyện
này chẳng có gì quan trọng. – Mau lên các bạn, ai muốn đeo găng vào? Cái anh
chàng cầm máy phát âm vẫn la hét. Ai muốn thử thời vận? Đeo găng vào và bạn sẽ
lãnh ngay năm bảng! Xen lẫn tiếng hét của anh ta là những hồi trống thúc giục.
– Tôi, Frank kêu to. Tôi đây! Frank rút tay ra khỏi tay cha Ralph đang cố giữ
anh lại. Đám đông cười rộ lên khi nhìn thấy vóc người thấp nhỏ của Frank. Bọn họ
đẩy Frank lên sàn gỗ một cách vui vẻ. Nhưng anh chàng rao hàng thì lại nghiêm
nghị khi một người trong những người của đoàn đưa tay thân thiện giúp Frank bước
lên cầu thang đến chỗ của tám võ sĩ. – Đừng có vội cười thưa quí ngài! Chàng
thanh niên này không to nhưng anh là người đầu tiên tình nguyện lên đây! Trong
một trận đấu, vóc dáng người không phải là vấn đề quyết định mà là những gì chứa
trong bụng! Và đây là một cậu bé can đảm lên thử thời vận. Các anh còn chờ đợi
gì, những chàng to khỏe, hả? Này, cậu trai hãy mang găng vào và lãnh năm bảng bằng
cách đứng vững trước một trong các nhà vô địch của Jimmy Sharman cho đến giây
phút cuối cùng! Cha Ralph không muốn Meggie chứng kiến cảnh Frank ăn đòn nên bế
xốc cô bé lên và định quay ra. Meggie hét lên, cha Ralph càng đi ra xa, tiếng
hét cô bé càng dữ dội. Người ta bắt đầu hướng mắt về họ. Uy tín không hề bị tai
tiếng của cha Ralph trước đây có nguy cơ bị ảnh hưởng vì chuyện này.
–
Nghe đây Meggie, cha không thể đưa con vào trong đó! Ba con sẽ lột da cha và
ông ấy làm như thế là có lý. – Con muốn ở lại với Frank! Con muốn ở lại với
Frank! Cô bé cứ hét lên, hai chân giẫy nẩy. – Thật là rắc rối! Linh mục bực dọc.
Đành phải chịu, không thể nào làm khác hơn, cha Ralph cho tay vào túi lấy ra
vài đồng tiền và đến gần cửa lều, mắt đảo quanh sợ một trong số các anh của
Meggie bắt gặp. – Đây không phải là cuộc trình diễn dành cho con bé này. Người
bán vé rõ ràng khó chịu. Cha Ralph đưa mắt lên nhìn trời. – Nếu anh có cách nào
đó đưa cô bé rời xa nơi đây mà không gây ồn ào để cảnh sát có thể bắt chúng ta
về cái tội hành hung trẻ con, thì tôi sẵn sàng đưa nó đi ngaỵ Anh cô ấy chấp nhận
lên đài so găng, cô ấy không muốn bỏ rơi anh mình. Người bán vé nhún vai. –
Thôi thì tôi không tranh luận với cha làm gì. Xin mời vào nhưng cố làm sao cho
nó đứng yên. Không, không, cha hãy giữ tiền lại, Jimmy Sharman không nhận tiền
của cha đâu. Đầu tiên Frank so găng với một võ sĩ hạng lông, anh hạ đo ván võ
sĩ này. Ở tiếng cồng thứ ba Frank đề nghị so găng với một đấu thủ khác. Khi anh
thi đấu đến trận thứ ba thì tiếng đồn đã lan ra nhanh như thuốc súng, trong lều
chật ních người xem, không còn một chỗ trống. Đánh đấm là cách duy nhất mà
Frank biết để trút hận thù và sự phiền muộn. Ngay lúc anh tung ra cú đánh hạ đối
thủ, hình như anh nghe một tiếng nói xa xăm dội vào tai anh: Hãy giết ông ta!
Hãy giết ông ta! Sau đó người ta đưa ra đối đầu với Frank một võ sĩ vô địch
đích thực, một võ sĩ hạng nhẹ được chỉ thị giữ một cự ly cách xa Frank để dò
xem Frank có biết đấu quyền Anh không hay chỉ là liều lĩnh. Đôi mắt Jimmy
Sharman sáng lên. ông ta luôn đi tìm những nhà vô địch, vào các ngày hội ở vùng
quê thường giúp cho ông phát hiện vài người. Người võ sĩ hạng nhẹ theo đúng chỉ
đạo của ông, trong khi đó Frank, điên lên muốn giết đối thủ, lao thẳng vào cái
bóng luôn nhảy qua nhảy lại không ngớt né tránh. Anh rút ra bài học, cứ mỗi lần
đánh áp sát, là bị một trận mưa đòn, vì rằng Frank thuộc vào loại người kỳ lạ
có thể suy nghĩ ngay giữa lúc hung tợn điên cuồng. Và Frank đã đứng vững đến
phút cuối cùng, trước những cú đấm dạn dày kinh nghiệm của đối phương. Một con
mắt của Frank sưng vù lên, một đường tét ở chân mày và một đường khác ở môi. Nhưng
anh lãnh được hai mươi bảng và được những người có mặt thán phục. – Con muốn
chúng ta chờ Frank hay chúng ta đi ngay?
Cô
bé dựa vào cha Ralph, đầy lòng cảm ơn đối với sự yên lặng và thông cảm mà linh
mục đã dành cho. – Cha đã phải tự hỏi tại sao con lại khiến trái tim vô nghĩa của
cha chịu một thử thách gay go như thế – linh mục nói thầm (ông nghĩ rằng cô bé
sẽ rất buồn và khổ mà nghe ông nói nhưng ông có nhu cầu phải bày tỏ các suy
nghĩ của mình thành tiếng, đấy là trường hợp thường xảy ra ở những kẻ sống độc
thân). Con không làm cho cha nhớ đến mẹ và cha cũng không có em, cha muốn biết
yêu thuật nào ẩn núp trong con và trong gia đình tội nghiệp của con cũng thế…
Mọi việc có quá khó khăn cho con không, hỡi cô bé Meggie của cha? Frank bước ra
khỏi lều, một miếng băng dính trên chân mày, tay chậm lên môi. Lần đầu tiên từ
khi cha Ralph biết Frank, ông thấy anh ta có vẻ vui lên. Tưởng như Frank vừa trải
qua một đêm yêu đương với một người phụ nữ – cha Ralph nghĩ thầm như thế. Khi
Pađy bước vào phòng khách của nhà xứ để tìm Frank thì Meggie và cha Ralph đang
đứng quanh ngọn lửa, thoải mái như trải qua một ngày vui, tuyệt vời. Điều đó
khiến cho Pađy bực bội. Không có vợ bên cạnh, Pađy cảm thấy thiếu vô cùng. Đối
với chị Mary Carson, Pađy vẫn giữ sự ác cảm không khác gì thời ông còn là một cậu
bé ở Ái Nhĩ Lan. Đúng lúc đó ông chú ý đến cái băng dính trên chân mày của
Frank và gương mặt sưng phù; một cái cớ từ trên môi rơi xuống để cho ông trút
ra bao nhiêu thứ bực bội. – Với cái mặt thế này thì làm sao mày dám về nhìn mặt
mẹ mầy! – Ông rầy to. Chỉ cần tao buông lơi một chút là mầy lại sẵn sàng vồ lấy
thằng nào đầu tiên lườm mày. Sửng sốt, cha Ralph bật ngồi dậy và nói vài tiếng
để xoa dịu Pađy, nhưng Frank đã phản ứng trước. – Con đã kiếm tiền bằng cách
này đây – Frank nói rất khẽ, tay chỉ cái băng dính – Hai mươi bảng trong vài
phút lao động, hơn cả số tiền cô Mary trả cho chúng ta, ba và con, trong một
tháng! Con đã đánh ngã ba võ sĩ giỏi và đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ
trong lều của Jimmy Sharman trưa này. Con đã lãnh 20 bảng! Điều này nó không
dính dấp đến những gì ba thường nghĩ về con. Tất cả mọi người chứng kiến trận đấu
đều nể nang con. – Thắng vài thằng khốn khổ mệt mỏi và bầm dập vì bị đấm, chỉ
xuất hiện để lòe thiên hạ trong các ngày hội ở nhà quê thế mà mày lại phách lối.
Phải biết cư xử như một người đã trưởng thành, Frank. Tao biết có thể mày đã
không thể cao hơn nhưng hãy vì mẹ mày, để cái đầu của mày lớn ra!
Mặt
Frank tái nhợt đi! Như những miếng xương trắng phếu dưới mặt trời. Với anh, đây
là sự sỉ nhục kinh khủng nhất từ trước tới nay. Hơi thở của Frank nghe rít lên
nhưng vẫn cố giữ hai tay ở yên hai bên sườn hông. – Họ không phải là những tên
khốn khổ bị bầm dập bởi những cú đấm, thưa ba. Ba đã nghe danh Jimmy Sharman
nhiều không thua con và chính hắn ta nói với con rằng con sinh ra là một võ sĩ
và trước mặt con là một tương lai sáng. Hắn muốn mướn con vào đoàn và rèn luyện,
và sẽ trả lương cho con! Có thể con không còn lớn nữa nhưng con đã đủ lớn để dạy
cho bất cứ ai một bài học… Lời nói ấy có giá trị cho cả ba nữa, con dê già thối
tha! Những tiếng cuối cùng hạ thấp giọng vẫn lọt vào tai của Pađy. Mặt ông tái
nhợt không thua mặt con khi ông biết Frank ám chỉ mình. – Sao mày dám nói thế?
– Ba không là cái gì khác hơn. Ba đáng ghê tởm. Còn tồi tệ hơn cừu đực động đực!
Tại sao ba không để mẹ con yên? Ba không thể tự kìm chế việc dùng mẹ con để tìm
khoái lạc hả? – Đừng, đừng, đừng! Meggie hét to lên. Mấy ngón tay của cha Ralph
cắm mạnh vào hai vai Meggie như móng chim mồi để cố giữ cô bé sát vào mình. Nước
mắt ràn rụa trên mặt, Meggie cố vùng vẫy hết sức mình nhưng vẫn không thể thoát
ra. … – Đừng ba, đừng! Frank ơi, em van anh! Em van anh! Cô bé la lên giọng hốt
hoảng. Nhưng chỉ có cha Ralph là nghe cô bé. Frank và Pađy xáp lại đối diện
nhau. Lòng căm hờn và sự e sợ đều bị lột trần. Con đê trước kia ngăn chặn hai
người – tình yêu cả hai dành cho Fiona – đã bị vỡ, giờ đây sự đối đầu ngấm ngầm
đã bộc lộ công khai. – Tao là chồng. Và Chúa đã giáng phúc cho cuộc kết hợp giữa
hai vợ chồng tao bằng cách mang lại cho hai vợ chồng tao nhiều con cái, Pađy
nói với giọng bình tĩnh hơn, cố gắng tự chủ. – Ba không xứng đáng hơn một con
chó già dơ dáy chạy theo sau bất cứ con chó cái nào để tìm cách nhảy đực! – Còn
mày, mày không hơn gì con chó già dơ dáy đã đẻ ra mày mà tao không hề biết đó
là con chó nào! Pady hét lên. Rất may, nhờ ơn Chúa, tao không có dính dấp gì
vào chuyện ấy. Trời ơi, tại sao tôi đã nói như thế… Pađy chợt im bặt; sự điên
tiết của ông tan biến nhanh như gió. Ông ta muốn ngã quỵ xuống, co rúm lại, hai
tay đưa lên bụm miệng, tưởng như ông muốn rứt cái lưỡi đã thốt ra điều không
bao giờ có quyền thốt ra. – Tôi không muốn nói điều đó, Pađy than khóc – Tôi
không muốn nói điều đó!
Ngay
lúc những lời ấy thoát khỏi miệng Pađy, cha Ralph buông Meggie ra và chạy ngay
tới Frank. Ông bẻ vặn cánh tay Frank ra sau lưng, cánh tay còn lại ông kẹp cổ
anh tạ ông rất to khỏe và cái khóa ấy giữ chặt Frank; Frank vùng vẫy để thoát
ra nhưng rồi đột ngột sự chống trả của anh tan biến và anh lắc đầu ra dấu khuất
phục – Meggie quỵ xuống sàn nhà, quỳ gối và khóc, mắt hết nhìn anh rồi nhìn cha
với sự van xin bất lực. Cô bé không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng biết rằng sau
chuyện này thì mình sẽ không còn giữ đủ cả hai. – Đừng chối, thật sự ông muốn
nói ra điều ấy. Đáng lý tôi đã biết điều đó. Cha hãy buông tôi ra. Tôi không đụng
tới ông ta đâu. Cầu xin Chúa giúp đỡ tôi. – Cầu xin Chúa giúp đỡ các người? Cầu
Chúa khiến cả hai mục xương dưới địa ngục! Nếu các người làm chấn thương tâm thần
con bé này, tôi sẽ giết các người. – Cha Ralph lớn tiếng, người duy nhất bây giờ
nổi giận – Các người có biết rằng tôi đã giữ con bé ở lại đây là để ngăn cản cả
hai cấu xé nhau chớ đâu phải để nghe những điều tồi tệ ấy. Đáng lý tôi cứ để
hai người tha hồ giết nhau, đồ ích kỷ, ngu đần và khốn nạn. – Thôi được rồi,
tôi đi đây – Frank nói bằng một giọng xa lạ, trống rỗng. – Tôi sẽ sung vào đoàn
của Jimmy Sharman và vĩnh viễn tôi sẽ không trở lại đây. – Con phải trở lại
đây! Pađy nói lớn – Ba sẽ ăn nói sao đây với mẹ con? Mẹ con yêu con hơn tất cả
những người khác cộng lại. Bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho ba. – Ông cứ nói
là tôi đã sung vào đội Jimmy Sharman vì tôi muốn trở thành một người có tên tuổi.
Đó là sự thật. – Điều mà ba đã nói… không đúng sự thật đâu Frank. Đôi mắt
đen, đôi mắt xa lạ của Frank ném một tia nhìn khinh miệt. Chính đó là đôi mắt
gây ngạc nhiên cho cha Ralph ở lần đầu ông gặp chàng thanh niên. Tại sao Fiona
thì mắt nâu còn Pađy mắt xanh lại đẻ ra đứa con trai mắt đen? Cha Ralph biết định
luật di truyền Medel, do đó bản thân ông đã rút ra kết luận. Frank lấy áo măng
tô và nón. – Trời ơi, đúng như thế! Tôi vẫn nghi ngờ điều ấy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh
mẹ tôi ngồi chơi đàn Claxeven trong một phòng mà ông không làm sao có được! Tôi
vẫn linh cảm là ông không hề có mặt ở đó, ông đã đến với mẹ tôi sau tôi. Và khi
nhớ lại suốt bao năm tháng tôi thù ghét ông vì ông hành hạ mẹ tôi. Chính tại
tôi! – Không tại ai hết, Frank ạ, không do ai hết. – Cha Ralph cố xoa dịu Frank
– Con không hiểu hết những con đường bí ẩn của chúa, con phải nhìn các sự việc
theo cách đó.
Frank
rút tay ra khỏi bàn tay cha Ralph đang nắm chặt anh, rồi đi ra cửa bằng những bước
nhẹ nhàng, êm ả – Không thế chối cãi anh ta sinh ra đã là võ sĩ – Cha Ralph
nghĩ thầm. – Những con đường bí ẩn của Chúa! Chàng thanh niên mỉa mai, giọng
nói vang lại từ ngoài cửa – Cha chỉ là một sinh vật khi cha đóng vai linh mục,
thưa cha De Bricassart! Riêng tôi, tôi nói Chúa đã đến cứu giúp cha, cứu giúp
riêng cha ma thôi, vì rằng cha là người duy nhất ở đây không mảy may biết một
chút nào về con người thật ấy. Pađy ngồi sụp xuống trên chiếc ghế bành, mặt xám
xịt, nhớn nhác, mắt nhìn Meggie trân trân, trong khi đó Meggie ngồi trước lò sưởi
khóc sướt mướt. Pađy định đứng dậy ôm con gái mình nhưng cha Ralph chăn lại. –
Hãy để con bé yên. ông gây cho nó bao nhiêu đớn đau như thế đủ rồi. ông có thể
tìm rượu whisky trong tủ và uống vài hớp đi. Tôi đưa con bé vào phòng cho nó
nghỉ, nhưng tôi sẽ trở lại nói chuyện với ông. Vậy ông đừng rời khỏi đây. ông
nghe tôi nói chứ? – Tôi chờ cha, thưa cha. Cha đặt Meggie lên giường dùm tôi.
Trên gác, trong căn phòng sơn màu xanh nhạt xinh xắn, linh mục cởi chiếc áo
ngoài và bộ đồ bó sát bên trong của Meggie và đặt cô bé ngồi trên giường, để cởi
giày vớ. Chiếc áo ngủ đã được bà quản gia Annie để sẵn trên gối! Linh mục tròng
áo qua cổ và kéo phủ xuống thân người Meggiẹ Sau đó, mới cở quần lót cho Meggiẹ
Trong thời gian này, cha Ralph kể đủ thứ chuyện đâu đâu cho cô bé nghe, nào là
chuyện tầm phào về những cái nút khó cởi, những sợi dây giày khó bảo, những dải
rubăng tháo mãi không ra. Đôi mắt cô bé còn đầy nét kinh hoàng thơ ngây không
giải thích được, tất cả rối ren và đau đớn vượt sức chịu đựng của tuổi cô bé.
Meggie như rơi vào khoảng không – Bây giờ hãy nằm dài ra, con yêu quí của cha
và ráng nhắm mắt ngủ. Cha sẽ trở lại ngay để thăm con. Đừng lo sợ gì. Chúng ta
sẽ trở lại tất cả những chuyện này vào ngày mai. Pađy hỏi cha Ralph khi linh mục
trở lại phòng khách: – Con bé đã bình yên chưa? Linh mục đưa tay lấy chai rượu
whisky trên tủ và rót nửa ly. – Thành thật mà nói, tôi chưa biết ra sao. Có
Chúa chứng giám, tôi muốn hiểu sự bất hạnh tệ hại nhất của người Ailen là từ
đâu: rượu hay cái tính hay nổi giận bất thường… Cái gì đã xúi giục ông nói
lên điều ấy? Thôi, giải thích cũng bằng thừa. Cái tính khí bất thường! Tất
nhiên là thế. Tôi đã biết ngay Frank không phải là con của ông khi lần đầu tôi
gặp nó. – Không có gì thoát khỏi cặp mắt của chạ
–
Không phải thế. Nhưng chỉ cần có chút óc quan sát trung bình thôi cũng đủ phát
hiện những chuyện buồn phiền hay đau khổ mà một số con chiên của Chúa phải gánh
chịu. – Phải chăng cha có được nhiều người ở Gilly yêu mến? – Có lẽ tôi được như
thế nhờ ở gương mặt và vóc dáng – linh mục Ralph trả lời một cách chua chát
không thể giữ giọng mình tự nhiên như ý muốn. – Cha nghĩ như thế à? ý kiến con
lại khác, thưa cha. Chúng con yêu mến cha vì cha là một đấng chăn chiên tốt. Dù
sao thì tôi dính líu quá sâu vào những rắc rối của gia đình ông – Cha Ralph nói
hơi lúng túng – ông nên rút ra hết đi những gì đè nặng trong lòng, ông bạn ạ.
Pađy vẫn nhìn chăm chăm ngọn lửa đang cháy rực. Lúc nãy khi cha Ralph bế Meggie
lên lầu và đặt cô bé lên giường ông đã ném vào lò sưởi thêm nhiều khúc củi,
lòng bị giày xéo bởi sự ăn năn và một đòi hỏi dữ dội muốn làm một điều gì đó.
Cái ly rượu như nhảy múa trên tay ông, bởi ông chưa qua cơn xúc động và run bật
lên từng chặp. Cha Ralph đứng lên, lấy chai rượu và rót đầy vào ly của Pađy.
Sau khi nốc một hơi, Pađy thở dài và lau những giọt nước mắt trên má lúc nào
ông không hay. – Con không hề biết cha của Frank là ai. Chuyện xảy ra trước khi
con gặp Fiona. Gia đình của vợ con là một gia đình danh giá ở Tây Tây Lan. Cha
của Fiona có một điền trang rộng lớn trồng lúa mì và nuôi cừu, ở gần Ashburton
trên Nam Đảo. Tiền nhiều không kể xiết. Fiona là con gái duy nhất của ông ấy.
Theo như con biết, ông ấy đã lo trước cho Fiona đủ cả, nào là sang Anh, ra mắt ở
triều đình, và lấy một người chồng xứng đáng. Dĩ nhiên Fiona không động một
móng tay vào các công việc trong nhà. Cô ta có nhiều người phục vụ… Gia đình
sống như vua chúa. Con làm công ở một hãng sữa, đôi khi cũng thấy Fiona từ xa.
Cô ấy đi dạo với một thằng bé khoảng 18 tháng. Rồi một hôm, lão James Armstrong
tìm con. Ông cho con biết là con gái của ông đã làm nhục gia đình, định đưa cô ấy
đi đến một nơi xa thì bà ngoại của Fiona chống lại một cách ồn ào đến mức gia
đình buộc lòng vẫn để Fiona ở đó mặc dù có vẻ bất tiện. Nhưng sau này bà ngoại
sắp qua đời, không còn ai ngăn cản việc đuổi Fiona và đứa con trai ra khỏi nhà.
Con còn độc thân và James bảo con nếu chịu lấy con gái của ông làm vợ và cam
đoan chắc chắn với ông ta là sẽ đưa con gái đi khỏi Nam Đảo thì ông sẽ chịu mọi
tổn phí và biếu thêm một số tiền là 500 bảng. Thưa cha, đó là cả một tài sản đối
với con, hơn nữa con đã chán cái cảnh độc thân. Bao giờ con cũng nhút nhát,
không làm được chuyện gì nên thân trong quan hệ với phái nữ. ý kiến ấy rất tốt
đối
với con và thẳng thắng mà nói, đứa bé không gây khó chút nào cho con. Bà ngoại
của Fiona cuối cùng đoán ra được việc này và cho người đi tìm con. Lúc bấy giờ
bà đã bệnh nặng. Bà là một người có uy quyền, tính tình rất khó chịu, nhưng con
quả quyết với cha, đó là một người phụ nữ rất đáng kính trọng. Bà kể cho con
nghe một chút về Fiona, nhưng vẫn không nói ai là cha của thằng bé. Phần con
cũng thấy không cần thiết tìm hiểu xa hơn. Bà buộc con hứa với bà ấy sẽ đối xử
tối với cháu gái của bà… Bà biết rằng Fiona sẽ rời khỏi nhà ngay khi bà nhắm
mắt. Và chính bà đã đưa ra ý kiến với James nên tìm cho Fiona một người chồng.
Con rất tội nghiệp cho bà cụ; bà rất yêu thương cháu gái của bà. Cha có tin hay
không nếu con kể cho cha biết rằng lần đầu tiên con đến gần Fiona, ở khoảng
cách nghe được tiếng nói của cô ấy, thì đó là ngày cưới? – Tôi tin ông – cha
Ralph nói khẽ – Pađy, thế là ông đã cưới một người vợ có điều kiện trên ông rất
nhiều. – Vâng. Lúc ấy con rất sợ cô ấy, sợ đến chết được. Cô ta đẹp quá, thưa
cha… Và cũng rất… xa xôi, chắc cha hiểu con muốn nói gì. Tưởng như cô ta
không hiện diện trong nhà mà là một người nào khác ngồi đó. – Bây giờ bà ấy vẫn
còn đẹp, ông Pađy ạ. – Cha Ralph dịu dàng nói. – Tôi có thể nhìn thấy ở Meggie
hình ảnh của Fiona trước kia. – Cuộc sống dành cho Fiona không phải dễ dàng thưa
cha, như cha biết đấy, không thể nào khác hơn được. Với con, ít nhất cô ấy được
an toàn, không sợ bị đối xử tệ. Phải chờ đến hai năm sau con mới dám… nói thẳng
ra, mới dám trở thành chồng thật sự của cô ấy. Con buộc phải tập cô ấy làm bếp,
quét nhà, giặt và ủi quần áo. Trước kia cô ấy không biết làm gì hết. Qua suốt
bao năm tháng dài mà chúng con ở với nhau, chưa bao giờ cô ấy hé môi một lần thở
than nhưng đồng thời cô ấy cũng không bao giờ cười hoặc khóc. Chỉ trong những
lúc hết sức riêng tư, trong tình vợ chồng, cô ấy mới để lộ ra những xúc động của
mình, nhưng ngay lúc đó cô ấy cũng không nói lời nào. Con rất muốn nghe cô ấy
tâm tình và đồng thời lại rất sợ vì con vẫn cảm giác rằng nếu cô ấy tâm tình
thì không thể tránh nhắc tới người ấy. Không! Con không nghĩ rằng cô ấy đối xử
không tốt với con và mấy đứa nhỏ. Con đã dành cho cô ấy tất cả sự trìu mến nhưng
hình như tình yêu đã tắt trong lòng cô ấy tự bao giờ. Ngoại trừ đối với Frank.
Con đoán chắc rằng cô ấy yêu thương Frank hơn tất cả chúng con cộng lại. Có lẽ
xưa kia cô ấy rất yêu cha của Frank. Nhưng con không biết gì về con người ấy, hắn
ta là ai mà tại sao hắn không thể cưới Fiona.
Cha
nhìn hai bàn tay mình, rồi nheo mắt. – Ồ, Pađy, cuộc đời quả là khổ cực làm
sao! Nhờ ơn Chúa mà tôi đã không dám đi gần hơn cái rìa của cuộc sống. Tôi
không có can đảm ôm lấy cuộc sống thật sự trong vòng tay mình. Pađy đứng lên loạng
choạng, hai chân không vững. – Thế đó, lần này thì con đã làm một điều dại dột.
Con đã ép buộc Frank đi khỏi nhà. Fiona sẽ không bao giờ tha thứ con. – Ông
không nên nói với bà ấy, Pađy à. Không, không nên nói. Cứ giải thích đơn giản với
bà rằng Frank đã đi theo đoàn võ sĩ, thế thôi. Bà ấy dư biết rằng từ lâu tính
tình Frank đã như thế và bà ấy sẽ tin ông. – Con không thể nói dối như thế, thưa
cha! Pađy kêu lên, sững sờ. – Cần nói như thế, Pađy. Bà ấy đã đau khổ và bị dằn
vặt như thế chưa đủ sao? Đừng gây thêm bất hạnh cho bà ấy nữa. Trong lòng mình,
cha Ralph nghĩ: Biết đâu? – Rất có thể cuối cùng bà ấy sẽ dồn tình yêu dành cho
Frank sang ông và cho con người bé nhỏ đang nằm trên lầu… – Cha tin như thế?
– Rất có thể. Nhưng chuyện xảy ra tối nay phải được giữ bí mật giữa hai chúng tạ
– Nhưng còn… Meggie? Con bé đã nghe hết. – Ông đừng lo về phần Meggie. Tôi sẽ
liệu. Tôi không nghĩ rằng Meggie hiểu được câu chuyện xảy ra. Nó sẽ nghĩ chỉ là
một cuộc cãi vã giữa ông và Frank. Tôi sẽ tìm cách làm cho Meggie hiểu rằng kể
lại cho mẹ nó nghe chuyện cãi vã giữa cha và anh chỉ làm cho mẹ đau khổ thêm.
Hơn nữa theo tôi nhận xét, Meggie cũng ít khi nói chuyện với mẹ nó (ông đứng
lên). Ông hãy đi ngủ đi Pađy. Nhớ đừng quên giữ cho sắc mặt của mình thật bình
thường vào sáng mai khi ông trở lại làm việc với nữ hoàng Mary. Meggie vẫn
không ngủ, nằm dài, hai mắt mở to dưới ánh sáng của ngọn đèn đặt ở đầu giường.
Linh mục ngồi ở mép giường và nhận ra rằng tóc của cô bé vẫn còn thắt bím. Một
cách thận trọng, ông tháo chiếc rubăng màu xanh nước biển và nhẹ nhàng gỡ từng
lọn tóc cho đến khi cả mái tóc dợn sóng, vàng óng ả nằm trải ra gối. – Anh Frank
đã đi rồi, Meggie – ông nói. – Con biết, thưa cha. – Con có biết tại sao không,
con thân yêu? – Có chuyện ẩu đả với ba.
–
Con tính sao? – Con sẽ đi theo Frank. Anh ấy cần con. – Không thể được, Meggie
bé nhỏ của cha. – Được chứ thưa cha. Con muốn đi tìm anh ấy đêm nay, nhưng đôi
chân của con rã rời và con rất sợ bóng đêm. Nhưng sáng mai, con sẽ đi tìm anh ấy.
– Không nên Meggie ạ. Con phải biết, Frank có cuộc sống của anh ấy, và đã đến
lúc anh ấy phải ra đi. Cha biết là con không muốn cho anh ấy đi, nhưng đã từ
lâu, anh ấy muốn thế. Con không nên ích kỷ. Phải để cho anh ấy chọn cuộc sống
theo ý thích. Khi chúng ta lớn lên, ý muốn được sống ở ngoài cái gia đình ma ta
đã được nuôi nấng là chuyện bình thường và đúng đắn. Frank đã trưởng thành, con
có hiểu những lời cha nói không Meggie? Đôi mắt cô bé nhìn thẳng vào mặt linh mục.
Một đôi mắt mỏi mệt, đau đớn và không còn chút nào là trẻ con. – Con biết, cô
bé thì thầm. Frank đã muốn đi từ lâu khi con còn nhỏ xíu. Nhưng rồi anh ấy
không đi được. Ba đã bắt anh đem trở về nhà và buộc anh ấy tiếp tục sống với tụi
con. – Nhưng lần này thì ba con không thể đem anh ấy về nữa, Frank đã đi thật sự
rồi Meggie. Anh ấy sẽ không trở về. – Con sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa
sao? – Cha không biết được – cha Ralph trả lời thành thật – Cha vẫn muốn nói với
con để con yên lòng là anh ấy sẽ trở về, nhưng không ai có thể đoán được tương
lai, Meggie, kể cả các linh mục. Con không nên nói cho mẹ con biết chuyện cãi
vã giữa ba và anh Frank, nghe không Meggie? Điều đó sẽ làm cho mẹ thêm đau buồn;
mẹ con hiện không được khỏe. – Bởi vì mẹ sắp có em bé? – Sao con biết. – Mẹ rất
thích làm nở ra các em bé. Và mẹ đã cho nở nhiều em bé rất dễ thương, thưa cha.
Ngay cả khi mẹ không được khỏe. Con sẽ cho nở ra một em bé như Hal. Như thế con
sẽ thấy bớt nhớ Frank hơn. – Sự sinh sản – cha Ralph nói một mình. Chúc con may
mắn, Meggie. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con không làm nở ra được một em bé? –
Con vẫn có Hal, giọng nói của Meggie đầy vẻ buồn ngủ, đầu nép vào gối, cha ơi,
còn cha sẽ không đi chứ?
–
Một ngày nào đó, rất có thể; nhưng bây giờ thì chưa, Meggie ạ, con đừng lo
nghĩ. Cha có cảm giác là cha sẽ ở Gilly lâu, rất lâu – Cha Ralph trả lời, hai mắt
vương buồn.
CHƯƠNG
9
hông
thể khác hơn, Meggie phải trở về nhà. Fiona cần sự giúp đỡ của cô bé. Stuart
còn lại một mình ở tu viện Gilly, bắt đầu một cuộc tuyệt thực, cuối cùng cũng
đã trở về nhà. Khi gặp lại mẹ, cô bé tưởng như bị một sức nặng khủng khiếp đè nặng
người mình; cô có biết đâu đó là dấu hiệu của sự rời bỏ tuổi thơ và là sự cảm
nhận rất sớm thân phận người phụ nữ. Bề ngoài, Fiona không thay đổi, ngoại trừ
cái bụng, nhưng bên trong, tất cả đều chậm lại như một chiếc đồng hồ treo tường
cũ kỹ với cái quả lắc mỗi lúc một mỏi mệt cho đến khi ngừng hẳn. Chú bé con tóc
màu hung chạy lăng xăng khắp nhà đụng vào bàn ghế, nhưng Fiona không ép nó vào
một khuôn khổ kỷ luật nào. Bà vẫn tiếp tục công việc như lâu nay – đi lại giữa
nhà bếp, nơi giặt quần áo và bồn rửa chén – như trên đời không còn gì khác hơn
để làm. Không ai nhắc tới tên của Frank nhưng cứ sáu tuần một lần, Fiona ngước
nhìn lên khi nghe tiếng kèn đồng báo hiệu chiếc xe phát thư đến. Bà vui lên một
lúc. Nhưng khi bà Smith đã trao thư từ cho Fiona và không thấy có thư nào của
Frank thì nỗi xót xa lại xâm chiếm lấy bà và tắt lịm đi. Có thêm hai người mới
trong nhà. Fiona cho ra đời một lúc hai đứa con trai tóc hung. James và Patrick
mà trong nhà gọi một cách thân yêu là Jimes và Patsy. Bé Hal thì chỉ biết có
Meggie, nó không muốn ai khác. K
CHƯƠNG
10
ha
Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc màu hung và uốn
lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ, trong khi Jimes đứng kế bên
chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái nhìn đầy thương yêu. Đúng là một
bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một đức tính bẩm sinh ở Meggie – cha Ralph
nghĩ thầm. Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này.
Ông thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn
qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ cây leo
khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại của điền
trang. Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính
giăng ra một kế nào nữa? – Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách
móc. – Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ. Ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô
bé vừa chải xong cho Jimes. Cả ba đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng
mình xuống để bế hai chú bé con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông. – Chúng ta hãy
cùng nhau thăm bà Mary. Ông nói. Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn
đến ngôi nhà lớn, một tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con
ngựa cái lông hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc
dù từ đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, cha
Ralph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung sướng.
Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh. Mary Carson đang ngồi trên chiếc
ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt
của bà cũng không còn cần thiết vì Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi
cha Ralph bước vào, cầm tay Meggie, thì cái nhìn đầy ác cảm của bà già buộc
ngay cô bé phải nhìn xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của
Meggie, càng nắm chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm.
Cô bé nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa gửi.
– Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith – Mary
Carson ra lệnh một cách lạnh lùng. – Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa
hỏi vừa buông mình xuống chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông. C
–
Bởi vì cha thương nó – bà trả lời. – Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất
thấy mình ở vào thế yếu – Con bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ. – Nhưng cha
đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều ấy Cặp mắt xanh đẹp
nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn. – Bà nghĩ rằng tôi có những
quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là linh mục. – Trước hết cha là một
người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục – điều đó chỉ mang đến cho cha
một cảm giác an toàn, có thế thôi. Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu
vì sao, ông cảm thấy thấy mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay
hôm đó; hình như bà đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan
vào đấy bằng nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã già đi, chấp
nhận thích nghi với cuộc sống lu mờ ở Gillabone. Ngọn lửa tắt dần trong lòng
ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác? – Tôi không phải là một người
đàn ông – ông vặn lại – Tôi là linh mục… – Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều
quá – bà chế giễu – Phải chăng tôi đang nghe chính đức Hồng Y De Bricassart
nói? – Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che
khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tầng cao ấy. Bà
Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế bành, nhưng
không một giây lơi quan sát cha Ralph. – Có thật thế không Ralph? Cha không còn
muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi
cái ngày đền tội của cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa
tăng đối với cha và tôi sẽ hiến dâng cho cha… Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng
đừng có nghi ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn
nhất mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh
miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên tường
và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha tự bán mình
như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế không? Ông bật ngửa ra
sau, cười. – Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà
hiểu tôi như bà tưởng. – Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời
gian thôi. Tôi đã già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
–
Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? – ông hỏi lại. Cũng là thời gian mà
thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng. Một hôm, bé
Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất nhanh. Pađy lên
nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60 cây số và ông ta đang
đi thăm một bệnh nhân khác. Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và
Pađy quỳ bên giường, tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ
hai tay của Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ
nhàng lên giường. Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal
không còn giãy giụa nữa. – Ba ơi, Hal có đỡ không ba? Pađy lắc đầu. – Không,
Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ rồi. Hal đã trở về
với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa. – Không, ba ơi, em không chết. Không thể
thế được. … Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé
nhưng Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã
không còn. Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một
bác sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác
hơn vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu. Sau đó, nhiệm vụ của
cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và các anh trai của Meggie thì xuống
xưởng mộc để đóng cái hòm. Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía
trên cổ, cha Ralph cúi xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên
bàn phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan
sát cô bé rõ hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại
cha Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn lại
cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh. Nhưng ông sợ
cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì ông không thể đối
đầu? Ông có thể vững vàng với những người khác; ông không sợ; nhưng nơi ông, sự
chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang len vào trong ý thức của ông, giữa
lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau
ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước ông rất xa.
Meggie
không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như mọi cô bé gái
khác. Meggie không bao giờ than vãn, lại có cái đức tính bẩm sinh – hay đó là một
bất hạnh – là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối
đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà
ông đã có về Meggie chỉ là tấm gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông. –
Ồ, Meggie – ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực. Meggie quay lại nhìn
cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé mỉm cười như gửi đến cha
Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề, không ẩn giấu bất cứ điều gì;
những điều cấm kỵ và ức chế của một người phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn
ngây thơ của Meggie. Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị
thiêu đốt; ông đã phải xin Thượng đế – dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ
sự hiện hữu – hãy biến ông thành bất cứ một con người èao khác trong cuộc đời
này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la điều
không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu thương cô bé
đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho ông. Ngồi im trước mặt,
Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông… Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần
hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất, mùa hè kế tiếp mang những cơn mưa đến làm
đầy con suối và các bồn chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt
đất những cơn bụi điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công
việc mùa vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu. Drogheda biệt
lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc duy nhất với bên
ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở đây chỉ trông cậy vào
Ralph. ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở Drogheda những quyển sách lấy từ
tủ sách của chính ông và của tu viện. Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng
chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng, chứ không đi xa hơn. Trong sự biệt lập ấy,
Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa của khái niệm những thực tế của
cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã ngăn chặn mọi ngả đường khám phá. Cha của
cô dựng lên một rào chắn kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài
như gây giống hay giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt
Meggie và đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng
hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới Drogheda.
Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu biết. Cuộc sống của
cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà và những vùng lân
cận,
hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấp đến giới tính. Các sinh vật ở
vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson không gây giống ngựa; bà mua ngựa của
Martin Jang ở Bugela. Ở trang trại có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho
mọi người léo hánh tới. Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi
như một công việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời
giờ không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm chúng dù
phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để nghĩ đến bất cứ
chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo sự dốt nát khác; một
cơ thể và một bộ óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các
sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận được tất cả. Vài hôm trước sinh nhật
lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của mùa hè lên đến gần cực điểm,
Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu từng vệt dính trong quần lót . Sau đó
một hai hôm không thấy gì nữa nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở
lại. Sự mắc cỡ ở Meggie biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần
áo không sạch, thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi
không cho phép nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu . Meggie không có một
chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là nó chảy
ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không trở lại trước
hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết vì ngày thường
cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho mọi người trong nhà. Hiện
tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều nhất từ trước
tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy cũng nhiều, thật nhiều.
Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh đôi và đặt ở trong quần lót,
với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới bên ngoài. Cái chết đã mang Hal
đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện tượng siêu tự nhiên, nhưng
còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của Meggie thì lại gây cho cô một nỗi
kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình
sắp sửa chết do một bệnh tật nhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với
Frank, cô mới có thể thổ lộ nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá
xa và không biết cách nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa
lúc uống trà đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng
khiếp của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn. Và
Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ thể âm ỉ,
tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggie. Ôi, cô bé không muốn chết chút nào!
Những
hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng cô rất sợ
hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng được mình sẽ ra
sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng khác gì một loạt luật
lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không giúp gì được cho cô cả. Sự
lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô độc êm đềm
và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ hãi sửng sốt của một
con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột, Meggie giật nẩy người, nếu
các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự
trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ,
Meggie liền chạy nhanh ra nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được
biết. Mọi người đều nhận ra sự thay đổi ở Meggie nhưng đều coi đó là một hiện tượng
phát triển bình thường của lứa tuổi. Cô bé giấu kín một cách tài tình nỗi cô
đơn tuyệt vọng. Không ai có thể hiểu những gì xảy ra bên trong Meggie. Không có
một biểu lộ nào, và sự kín đáo đó được giữ cho tới cùng. Từ Fiona đến Stuart,
qua Frank, không biết bao nhiêu điều đã xảy ra. Thế mà, trong những chuyến thăm
Drogheda thường xuyên, cha Ralph đã nhận ra sự thay đổi ở Meggie; sự thay đổi ấy
trùng hợp với diễn biến rất dễ thương ở người phụ nữ; nó làm giảm đi các hoạt động
vì lo lắng rồi âu sầu. Một sự sa sút về thể xác lẫn tinh thần đập vào mắt cha
Ralph. Meggie lẩn tránh mọi người. Cha Ralph không muốn thấy Meggie biến thành
một Fiona thứ hai. Gương mặt nhỏ bé thu lại chỉ còn thấy rõ đôi mắt, đôi mắt mở
to như hướng về một viễn ảnh khủng khiếp nào. Da màu sữa, trước đây đầy đặn,
không hề bị rám nắng, cũng không có vết tàn nhang, đang càng lúc càng tăng lên.
Nếu cái đà này cứ tiếp tục, cha Ralph nghĩ thầm, một ngày nào đó Meggie sẽ tự
đâm mình, vất vưởng trong tia sáng hiu hắt màu nâu, lờ đờ, rất khó nhận ra bằng
mắt, giữa những chiếc bóng đan lên nhau và những vệt đen đang lan dần lên bức tường
trắng. Thế là cha Ralph quyết khám phá điều ấy ở Meggie, dù phải dùng biện pháp
mạnh. Vào lúc đó, Mary Carson tỏ ra khó chịu và ghen tuông từng lúc mỗi khi cha
Ralph ở lại tại nhà Pađy. Một hôm, ông thoát ra được sự kềm kẹp của Mary Carson
và săn tìm cho được Meggie, cuối cùng gặp cô trong nghĩa trang nhỏ, núp nắng dưới
một bức tượng thánh – Meggie đang nhìn nét mặt nhợt nhạt của bức tượng, trong
khi đó chính gương mặt của cô biểu lộ nét sợ hãi, một sự tương phản giữa xúc cảm
và vô cảm trơ trơ – cha Ralph nghĩ thầm như thế. Nhưng mình ở đây
làm
gì, chạy theo đuôi cô ta như một con gà mẹ già nua, trong khi Fiona hoặc Pađy
có trách nhiệm tìm hiểu những nguyên nhân âu lo của con gái. Nhưng cha mẹ của
Meggie đã không nhận thấy gì bởi họ ít quan tâm đến con gái, trong khi cha
Ralph lại dành cho Meggie thật nhiều thứ. Hơn thế, với cương vị một linh mục,
cha Ralph còn có trách nhiệm an ủi những tâm hồn đau khổ cô đơn và tuyệt vọng.
Ông không thể chịu đựng nổi khi thấy Meggie đau khổ, nhưng tai hại là ông đã
ngày càng gắn bó với Meggie qua một loạt sự kiện rắc rối chồng lên nhau. Với
Meggie, ông đã hằn sâu biết bao sự việc và kỷ niệm, do đó ông cảm thấy sợ. Tình
thương của ông dành cho Meggie và bản chất linh mục của ông, thúc đẩy ông phải
sẵn sàng mang lại mọi sự giúp đỡ về mặt tinh thần mà đúng ra mọi người đều có
quyền chờ đợi ở ông. Ông phải tự chiến đấu để thấy rõ hơn là mình có trách nhiệm
với Meggie cũng như với bất cứ ai khác. Nghe tiếng chân đi trên cỏ, Meggie quay
lại, hai tay đặt chéo trên đùi, mắt nhìn xuống. Cha Ralph đến ngồi bên cạnh cô,
tay bó gối. Chiếc áo choàng không được kín đáo làm tăng vẻ đẹp cái thân thể bên
trong của cha. Thối thoát vô ích, ông nghĩ thầm. Nếu muốn, Meggie có thể tránh
né ông. – Có chuyện gì xảy ra hở Meggie? – Không có chi thưa cha. – Cha không
tin lời con. – Con xin van cha, con xin van cha ma! Con không thể nói với cha
chuyện này được. – Ồ, Meggie thương yêu! Cô gái thiếu đức tin! Con có thể nói với
cha tất cả. Chính vì thế mà cha có mặt tại đây. Chính vì thế mà cha là linh mục.
Cha là người đại diện đã được Chúa lựa chọn trên trần gian. Cha nhân danh Chúa
mà nghe con nói, nhân danh Người ta có quyền tha thứ cho con. Nghe đây Meggie
bé nhỏ của ta, không có điều gì ở trên trần thế này mà Chúa và ta không thể tha
thứ. Con phải nói cho ta biết điều gì làm con băn khoăn, con thương yêu. Ngày
nào ta còn trên đời này, ta sẽ luôn tìm cách giúp đỡ con, che chở con. Nếu con
muốn thì cha sẽ như một thiên thần hộ mệnh, chắc chắn đáng tin cậy hơn so với bức
tượng đá cẩm thạch mà con nhìn thấy. Nếu con thương yêu ta, hãy nói cho ta biết
làm gì làm con lo lắng. – Thưa cha, con sắp chết, cô gái vừa nói vừa vặn hai
tay – con bị ung thư. Suýt nữa ông cười to lên vì gánh nặng trong lòng bỗng chốc
trút bỏ hết; nhưng liền đó nhìn kỹ làn da mịn, hơi xanh, hai cánh tay nhỏ gầy của
Meggie, trong lòng ông nổi lên một thèm muốn ghê gớm được khóc và hét to lên,
oán giận cả trời đất trước một bất công như thế. Không,
Meggie
không tự mình tưởng tượng ra chuyện khủng khiếp ấy mà không dựa vào một nguyên
nhân nào đó, có thể có một lý do. – Điều gì khiến cho con tin như thế, quả tim
bé nhỏ của cha? Phải một lúc khá lâu, cô mới kể lại và khi ấy, cha Ralph phải
nghiêng đầu về phía gần môi Meggiẹ ông lặp lại một cách máy móc tư thế của một
linh mục trước một con chiên đang xưng tội: lấy tay che mặt để mắt cô gái không
trông thấy mình, còn tai sẵn sàng nghe những lời xưng tội. – Cách đây sáu tháng
thưa cha, chuyện ấy bắt đầu xảy ra. Con bị đau bụng dữ dội, nhưng không phải
đau bụng như khi ăn không tiêu đâu… Rồi… Cha ơi… rất nhiều máu chảy ra.
Cha Ralph ngửa đầu ra sau, cử chỉ mà không bao giờ có trong những lúc nghe xưng
tội; ông nhìn đầu Meggie cúi xuống vì xấu hổ. Biết bao xúc động dấy lên khiến
cho ông không thể lấy lại sự bình tĩnh. Vô lý thật. Sự nhẹ nhõm hết sức dễ chịu
rồi sau đó ông lại giận Fiona, mẹ của Meggie, ông thán phục với sự kinh ngạc
khi nghĩ đến cô gái bé bỏng ấy sao lại có thể chịu đựng một cực hình dai dẳng,
một sự khó chịu như thế mà không hình dung được là cái gì. Ông đã từng nghe những
chuyện tương tự như chuyện Meggie kể trong suộc cuộc đời linh mục. Mỗi thành phố
cha từng ở lại từ Dublin đến Gillabone, đều có những cô gái hư hỏng len vào
phòng xưng tội kể lể những chuyện bịa đặt cứ như là thật với mục đích duy nhất
là khơi dậy cái điều mà họ tò mò nhất ở một linh mục: đó là tính sung mãn của
người đàn ông. Tất cả đám con gái đó không chịu nhìn nhận rằng họ hoàn toàn thất
bại trong toan tính này. Họ thì thầm kể lại nào là họ đã bị hãm hiếp như thế
nào, gợi lên những trò cấm kỵ giữa họ với những đứa con gái khác, những chuyện
dâm đãng và ngoại tình; một vài cô trong bọn, óc tưởng tượng phong phú hơn, đến
mức kể tỉ mỉ những chi tiết làm tình với một linh mục. Thế mà cha Ralph vẫn
nghe, hoàn toàn không xao xuyến mà chỉ thấy kinh tởm và xót xa cho họ. Cha đã
trải qua cuộc sống khắc khổ ở tu viện. Hơn thế nữa với một con người thuộc tầm
cỡ ông, bài học ấy ông tiêu hóa không khó khăn lắm. Nhưng trong tất cả các trường
hợp đã qua, chưa bao giờ các cô gái lại nói về những chỗ yếu của thân xác, làm
hạ phẩm giá của họ. Dù hết sức cố gắng nhưng cha Ralph không thể ngăn chặn máu
trong người nóng lên. Mặt ửng đỏ; cha Ralph quay đầu đi và úp mặt trong tay, chống
chỏi lại sự hổ thẹn lần đầu làm đỏ mặt ông.
Nhưng
tất cả những chuyện ấy không giúp gì cho cô gái bé Meggie. Khi biết chắc rằng sắc
mặt của mình đã trở lại bình thường, cha Ralph đứng dậy, nâng Meggie lên và đặt
cô gái ngồi trên bệ đá cẩm thạch để cho mặt của Meggie cao ngang với ông. –
Meggie hãy nhìn cha. Đừng làm thế, hãy nhìn thẳng cha. Meggie ngước lên với đôi
mắt của con thú bị săn đuổi và thấy linh mục mỉm cười; tâm hồn cô cảm thấy nhẹ
nhàng một niềm an ủi vô hạn. Cha sẽ không mỉm cười như thế nếu cô sắp chết.
Meggie biết rất rõ cha Ralph chẳng bao giờ giấu diếm tình cảm của ông. –
Meggie, con không biết đâu và con cũng không bị ung thư. Đúng ra ở cương vị này
cha không thể giải thích chuyện gì đã xảy ra nhưng cha nghĩ rằng cha phải làm
thôi. Đáng lý mẹ con hải nói cho con biết từ lâu, chuẩn bị cho con sẵn sàng đón
nhận hiện tượng ấy. Cha không thể nào hiểu được tại sao mẹ con không làm như vậy.
Cha Ralph liếc nhìn bức tượng thánh bằng cẩm thạch đứng sững trên cao, rồi cười
như tắt nghẹn. – Lạy Chúa! Chúa giao cho con một nhiệm vụ không dễ dàng. Này
Meggie thân yêu, với năm tháng, khi con lớn lên, rồi già đi và khi con biết được
nhiều hơn về những thực tế của cuộc sống, con sẽ nhớ lại cái ngày này mà không
khỏi khó chịu, hổ thẹn nữa là khác. Nhưng đừng giữ kỷ niệm này làm gì, Meggie ạ.
Tất cả chuyện này chẳng có gì lạ xấu hổ và chẳng có gì ngượng ngập cả. Lúc này,
cũng như mọi khi, cha chỉ là công cụ ở trần thế, cha không có quyền nghĩ đến
nhiệm vụ nào khác. Con đã quá sợ hãi, con cần sự giúp đỡ, và Đức Chúa Trời đã
ban cho con sự giúp đó qua đại diện của Người là ta. Con nên nhớ điều ấy,
Meggie ạ. Cha là tôi tớ của Chúa và những gì cha nói đều nhân danh Chúa. Chuyện
xảy ra với con là chuyện đã xảy ra với tất cả mọi phụ nữ, Meggie, mỗi tháng một
lần và kéo dài trong nhiều ngày, con sẽ thấy ra máu. Thường chuyện đó xuất hiện
ở tuổi 12, 13… Con đã mấy tuổi? – Thưa con mười lăm! – Mười lăm à? Con đã mười
lăm? – Cha Ralph lắc đầu không tin – Nhưng thôi, con đã nói với cha thì cha
không nghi ngờ gì. Với cái tuổi mười lăm chuyện ấy xảy ra như thế là trễ. Hiện
tượng này sẽ diễn ra mỗi tháng cho đến khi con trên 50 tuổi. Với một số người
nó xuất hiện đều đặn theo chu kỳ tuần trăng, với một số khác có thể không đều đặn.
Với người này không bị đau đớn, với người khác thì ngược lại. Người ta không biết
được tại sao sự khác nhau ấy. Nhưng đó là dấu hiệu trưởng thành của con. Con có
hiểu trưởng thành là gì không? – Con biết chứ, thưa cha. Con đọc sách! Trưởng
thành có nghĩa là con đã lớn.
–
Tốt. Giải thích như thế cũng khá đủ. Khi nào con ra máu là người phụ nữ còn có
thể có con. Đó là sự kế tục nòi giống. Vào thời kỳ trước khi xảy ra tội tổ
tông, hình như Eva không có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là tên gọi hiện tượng đã xảy
đến với con, Meggie. Nhưng khi Adam và Eva phạm tội, Chúa Trời đã trừng phạt người
phụ nữ nặng hơn vì rằng trong sự sa ngã ấy, người phụ nữ có tội nhiều hơn,
chính họ đã cám dỗ người đàn ông. Con có nhớ những lời giảng trong kinh thánh
không? Người sẽ sinh đẻ trong đau đớn, có nghĩa là Chúa muốn rằng đối với người
phụ nữ, tất cả những gì liên quan đến việc sinh đẻ đều là nguồn gốc của mọi tội
lỗi. Đó là những niềm vui sướng thật lớn lao nhưng đồng thời cũng là những đau
đớn tận cùng. Đó là phần số của con người, Meggie ạ, con phải cam chịu như vậy.
Meggie không biết rằng cha Ralph cũng sẵn sàng mang lại sự an ủi và giúp đỡ y
như thế với bất cứ một nữ giáo dân nào, mặc dù có khi cha không thiết tha đến số
phận của họ như đối với số phận của Meggie. Cha là hiện thân của lòng tốt, nhưng
không bao giờ cha lại để bị lôi cuốn vào những nỗi lo âu. Sự an ủi và giúp đỡ
riêng càng có ích gấp bội đối với người đón nhận. Cha Ralph vượt lên trên những
điều tầm thường. Bất cứ ai cần sự giúp đỡ của cha đều không cảm thấy bị ghét bỏ
hay chê trách. Nhiều linh mục đã khiến cho con chiên mang mặc cảm tội lỗi, xấu
xa, đê tiện khi ra về. Còn cha Ralph thì không. Cha Ralph làm cho họ hiểu rằng,
chính bản thân ông, cũng có những niềm đau và những cuộc đấu tranh. Niềm đau
thì xa lạ còn cuộc đấu tranh có thể không thấy rõ hết nhưng không vì hiểu điều
này, rằng phần lớn sức quyến rũ và sức hấp dẫn của ông không do con người xác
thịt của ông tạo nên, mà do chính sự xa cách gần như thần thánh, do một phần nhỏ
rất con người thấm sâu vào tâm hồn ông. Với Meggie, ông nói chuyện như Frank đã
nói chuyện với em gái, ngang hàng nhau. Nhưng ông lớn tuổi hơn, sáng suốt hơn
và hiểu biết hơn Frank nhiều, do đó ông là người mà Meggie có thể tâm tình thoải
mái hơn. Giọng nói của cha Ralph thanh thoát mang âm điệu nhẹ nhàng của người
Ailen, có khả năng làm lắng xuống mọi sợ hãi và âu lo. Meggie còn trẻ, lúc nào
cũng tò mò, khao khát được hiểu tất cả những gì cần thiết; đầu óc chưa bao giờ
bị rối loạn bởi những triết lý vốn thường gây hoang mang. Cha Ralph là người bạn
của cô, là thần tượng yêu thương của lòng cô, một mặt trời mới trong bầu trời
riêng của cô. – Meggie, bây giờ con phải trở về nhà và nói cho mẹ con biết là
con bị ra máu. Mẹ con sẽ chỉ cách làm thế nào để giữ cho con được sạch. – Mẹ
con cũng bị như thế chứ?
–
Tất cả phụ nữ khỏe mạnh đều bị như thế. Nhưng khi mang thai, sẽ ngưng lại cho đến
ngày sinh em bé. Chính khi tắt kinh, người phụ nữ biết rằng mình đang mang
trong người một mầm sống mới. – Tại sao máu ngưng chảy ra khi người phụ nữ chờ
đợi sinh con? – Cha không biết, thật sự không biết. Xin lỗi con, Meggie. – Tại
sao máu lại chảy ở phía sau? Cha Ralph hướng mắt giận dữ về phía tượng thánh
đang bình thản ngắm nhìn ông, bất động trước những buồn phiền mà những người phụ
nữ gặp phải. Mọi việc trở nên quá hóc búa đối với cha Ralph. Ông không ngờ
Meggie lại đặt các câu hỏi xa vời mà bình thường cô hay bỏ lửng nửa chừng, điều
ấy khiến cho cha kinh ngạc! Nhưng ông ý thức rằng từ nay ông sẽ là nguồn cung cấp
hiểu biết cho Meggie, ông cố tránh bằng mọi giá không để cô phát hiện sự bối rối
và khó chịu của mình. Rất có khả năng, cô sẽ thu mình lại và không thèm đặt câu
hỏi với ông nữa. – Máu không chảy ra từ phía sau của con, Meggie – ông trả lời,
với tất cả sự kiên nhẫn. Nó chảy ra từ một nơi ẩn giấu, phía trước thân thể
con, cái nơi dính dáng mật thiết với chuyện có con. – Ồ, có phải ý cha muốn nói
máu chảy ra từ chỗ ấy? Meggie reo lên. Nhiều lần con đã tự hỏi các em bé ra đời
như thế nào? ông mỉm cười, nhấc bổng Meggie lên khỏi bệ đá. – Bây giờ thì
Meggie đã biết tất cả rồi. Con có biết ai tạo ra những đứa con không, Meggie? –
Ồ, biết chứ! – Meggie ưỡn ngực ra, vui sướng vì đã hiểu biết chút ít – Người ta
làm cho các em bé mọc ra. – Và con có biết chúng bắt đầu mọc ra như thế nào
không? – Khi người ta muốn có các em bé một cách mãnh liệt. – Ai nói cho con
nghe điều ấy? – Không ai cả. Con tự hiểu như thế. Cha Ralph nhắm mắt lại và thầm
nghĩ không ai có thể kết tội ông hèn nhát vì đã bỏ lửng chuyện ấy ở đó. Dù cho
ông có thương hại cô gái bé nhỏ, ông vẫn không thể giúp đỡ cô ta xa hơn. Thử
thách mà ông trải qua như thế quá đủ rồi.
CHƯƠNG
11
Mary
Carson sắp 72 tuổi, bà chuẩn bị chu đáo cho buổi tiếp tân lớn, chưa từng có ở
Drogheda trong 50 năm qua. Ngày kỷ niệm sinh nhật của bà đúng vào thượng tuần
tháng 11, bấy giờ trời vẫn còn nóng dữ dội, nhất là đối với người dân ở Gilly.
– Bà Smith hãy nhớ nhé điều tôi đã nói với bà. Minnie thì thầm. Đừng quên nhé!
Bà ta sinh ngày 3 tháng 11 – Nhưng mày muốn nói gì nữa, Minnie? Bà quản gia hỏi.
Thái độ bí hiểm theo kiểu người Scotland của Minnie gây bực bội cho bà già người
Anh. – Sao, bà không hiểu à? Điều đó chứng tỏ ngày sinh của bà ta là con bọ cạp.
Một con bọ cạp… Bà có thấy đúng thế không? Trên chiếc ghế bành, con nhện cái
già ở trung tâm mạng lưới, phát ra một loạt mệnh lệnh; phải làm thế này, phải
làm thế kia, đem cái này ra, dời cái kia đi chỗ khác. Hai cô gái hầu phòng đang
đánh bóng những đồ bằng bạc và rửa bộ chén đĩa bằng sứ Haviland, biến nhà nguyện
nhỏ trong nhà thành nơi chiêu đãi và xếp những bàn dài đầy bánh rượu ở mấy
phòng bên cạnh. Dàn nhạc Clarence O” Toole sẽ từ Sydney đến cùng một lúc với
các món hải sản quí. Cả một vùng rộng lớn, từ Rudna Hunish đến Inishmurray và
Bugela đến Narrengang rộn ràng chuẩn bị tham dự buổi lễ này. Giữa lúc nền đá cẩm
thạch của đại sảnh vang lên những tiếng bàn ghế xê dịch, những tiếng gọi nhau
ơi ới của những người khuân vác đang bày viện phòng tiếp tân thì Mary Carson rời
khỏi chiếc ghế bành, đến ngồi sau bàn viết. Bà lấy ra một tờ giấy mịn, chấm bút
vào bình mực rồi bắt đầu. Bà viết liên tục không do dự, ngay cả khi chấm phẩy.
Năm năm gần đây, bà đã suy nghĩ một cách chi li nội dung từng câu phức tạp, sắp
xếp thật chỉnh để từng chữ được sử dụng đúng, chính xác. Viết thì chẳng mất bao
nhiêu. Bà Carson viết đầy hai tờ giấy, trong đó một tờ chỉ hai phần ba. Khi viết
xong dòng cuối cùng, bà ngồi yên một lúc. Bàn viết đặt bên cạnh cửa sổ lớn, chỉ
cần quay đầu là đã nhìn thấy thảm cỏ trước nhà. Tiếng cười từ ngoài vọng vào
làm bà chú ý, lúc đầu bà chẳng nghĩ gì nhưng sau đó lại khơi dậy trong bà sự bực
bội tức tối ngấm ngầm. Cầu Chúa hãy đầy hắn xuống địa ngục, hắn và con người ám
ảnh hắn. Cha Ralph bỗng nẩy ý kiến tập Meggie cỡi ngựa; dù là một cô gái ở đồng
quê, chưa bao giờ Meggie có dịp ngồi trên yên ngựa. Thực tế lạ lùng là các cô
gái xuất thân từ những gia đình
nghèo
rất ít khi được cỡi ngựa. Đây là một trò tiêu khiển dành cho các phụ nữ trẻ
giàu có – Ở nông thôn hay thành thị cũng thế. Một hôm cha Ralph mang từ Gilly đến
một đôi ủng ngắn, bộ quần áo cỡi ngựa và ném các thứ ấy lên chiếc bàn ở nhà bếp
gia dình Cleary. Pađy đang đọc sách sau buổi ăn trưa giật mình, nhìn lên ngạc
nhiên. – Ủa, chuyện gì đó, thưa cha? – ông ta hỏi. – Bộ đồ đi ngựa cho Meggie.
– Sao? Pađy kinh ngạc. – Đồ đi ngựa cho Meggie. Pađy à, ông không thể nào vứt bỏ
cái lớp nhà quê của ông hay sao? Ông là người thừa kế của một điền trang rộng
và giàu nhất xứ New South Wales, vậy mà chưa bao giờ ông cho phép cô con gái
duy nhất của ông được cỡi ngựa! Thế thì làm sao con gái của ông giữ được vị trí
bên cạnh ái nữ Carmichael, ái nữ Hopeton và phu nhân Antony King, tất cả đều là
những kỵ sĩ tài ba. Meggie phải tập cỡi ngựa ngồi một bên theo cách dành cho phụ
nữ và cả hai bên như đàn ông. Ông có nghe tôi không ông Pađy? Tôi biết ông rất
bận, vậy tôi sẽ dạy cho Meggie nghệ thuật cỡi ngựa, dù ông có thích hay không
thích. Nếu vì chuyện này Meggie có xao lãng việc nhà thì cũng chẳng sao. Một
vài giờ trong tuần Fiona sẽ không có Meggie bên cạnh để làm việc nhà. Chúng ta
không trở lại vấn đề này, dứt khoát là như thế. Pađy không có khả năng đối đầu
với một linh mục; thế là từ đó, Meggie bắt đầu tập cỡi ngựa. Nhiều năm trước
đây cô bé ao ước phút giây này. Có một lần, Meggie đã bày tỏ ước muốn đó với
cha nhưng Pađy lại quên, và cô bé cũng không nhắc lại coi như cha mình im lặng
có nghĩa là từ chối. Được học cỡi ngựa dưới sự hướng dẫn của cha Ralph, Meggie
sung sướng phát điên lên, không hề giấu giếm niềm vui của mình. Sự ngưỡng mộ của
Meggie đối với cha Ralph giờ đây đã biến thành mối tình nóng bỏng của một cô
gái lém lỉnh . Vẫn biết rằng mối tình ấy là không đi đến đâu nhưng cô bé vẫn tự
cho phép mình mơ tưởng về con người ấy. Meggie tưởng tượng cái cảm giác mà có được
khi ở trong vòng tay của cha Ralph và cả những nụ hôn nồng nàn của cha. Những
suy nghĩ thơ thẩn của Meggie không đi xa hơn; cô bé không có chút ý tưởng gì về
điều có thể xảy ra sau đó, thậm chí không hiểu những diễn biến tiếp theo sẽ như
thế nào. Nếu cô bé biết rằng mơ tưởng đến một linh mục là xấu thì chính cô cũng
không đủ sức để né tránh. Bây giờ cô chỉ còn biết che giấu lòng mình, không để
cho cha Ralph đoán được những ý nghĩ thầm kín.
CHƯƠNG
12
rong
khi Mary Carson đang đứng sau cánh cửa sổ phòng khách theo dõi cả hai người thì
cha Ralph và Meggie từ chuồng ngựa đang đi về tận bên kia đối diện với ngôi nhà
lớn, cùng một hướng với nhà của người quản lý. Những người làm công ở trang trại
chỉ được cỡi trên những con ngựa chưa hề nuôi trong chuồng mà thả ngoài sân hay
lang thang đi ăn cỏ. Nhưng ở Drogheda vẫn có những đàn ngựa rất đẹp mặc dù chỉ
có cha Ralph là được cỡi trên những con ngựa đó. Mary Carson đã giữ lại hai con
ngựa thuần giống đặc biệt dành cho cha Ralph sử dụng, không thể để những con ngựa
già ốm nhom cho cha. Khi cha Ralph hỏi bà Mary Carson có bằng lòng cho Meggie cỡi
trên một trong hai con ngựa ấy không, bà Mary không có cách nào từ chối. Cô gái
là cháu của bà, vả lại lý do của cha Ralph đưa ra là chí lý. Cô bé phải biết cỡi
ngựa chứ, cháu gái của bà chủ kia mà. Trong thâm tâm, bà Mary Carson rất muốn từ
chối hoặc ít ra nên cùng đi với họ. Nhưng bà không thể cưỡng lại lời yêu cầu của
linh mục, cũng như với cái tuổi này bà không thể ngồi trên lưng ngựa được nữa.
Thế là bà đành chịu thua một cách bực tức khi nhìn thấy họ sánh vai đi qua bãi
cỏ. Người đàn ông mặc quần ngắn, đôi ủng cao tới đầu gối, vóc người mảnh khảnh,
nét mặt có chút liến thoắng của con trai. Cặp nam nữ này biểu lộ tình cảm thân
mật và hết sức thanh thản. Đây là lần thứ một ngàn, bà Mary Carson tự hỏi tại
sao ngoài bà ra, không ai đặt vấn đề mối quan hệ ấy. Pađy thì tỏ ra hết sức bằng
lòng về mối quan hệ giữa con gái mình và cha Ralph, còn Fiona lúc nào cũng im lặng
chẳng nói lời nào như khúc gỗ. Phải chăng vì yêu Ralph de Bricassart mà bà Mary
Carson phát hiện ra cái điều không ai thấy được? Hoặc là óc tưởng tượng của bà
đã hại bà? Có đúng đây là tình bạn giữa một người đàn ông gần 35 tuổi dành cho
một cô gái chưa trưởng thành? Ngu ngốc! Không một người đàn ông nào kể cả Ralph
lại không biết Meggie như bông hồng đang nở sao? Với Ralph thì có gì lọt qua được
con mắt của ông ta đâu? Bàn tay của Mary Carson run lên, những giọt mực xanh
đen rơi xuống làm bẩn trang giấy trước mặt bà ta. Những ngón tay khẳng khiu đưa
vào hộc tủ lấy ra một tờ giấy khác. Bà lại cầm viết chấm vào bình mực và viết lại
từng chữ, với sự tự tin và viết suông sẻ không khác lần trước. Sau đó bà đứng
lên và nặng nề đi về phía cửa. – Minnie, Minnie! Bà gọi tọ T
–
Chúa ơi! Chính bà ta gọi. – Chị hầu phòng kêu lên bằng một giọng trong trẻo.
Con có thể giúp gì cho bà, thưa bà Carson? Chị ta vừa hỏi vừa nghĩ thầm tại sao
bà ta không gọi bà Smith như mọi khi. – Mày đi gọi ngay thằng làm hàng rào và
Tom đến đây ngay. – Con có cần nói cho bà Smith biết không? – Không, mày chỉ cần
làm theo như tao bảo. Khi cả hai đến, Mary Carson hỏi: – Hai anh có biết viết
không? Cả hai vừa nuốt nước miếng để tự trấn an vừa gật đầu. – Vậy thì tốt. Tôi
muốn hai anh nhìn tôi ký tên trên tờ giấy này, rồi hai anh ký tên và viết địa
chỉ của hai anh ở dưới chữ ký của tôi. Hiểu chứ? Cả hai gật đầu. Mary Carson
chăm chú theo dõi họ và khi hai người đã viết xong, bà trao cho mỗi người một tờ
bạc mười bảng với lời dặn phải biết giữ miệng. Meggie và cha Ralph đã biến mất
tự bao giờ. Mary Carson nặng nề ngồi xuống bàn viết, lại lấy ra một tờ giấy
khác và lại bắt đầu viết. Lần này, có lẽ do nội dung được viết không đơn giản
nên bà không còn khoan thai như trước. Rất nhiều lần, bà dừng lại để suy nghĩ,
môi mím chặt, mỉm cười nhưng không vui, rồi bà lại tiếp tục. Hình như bà có nhiều
điều phải nói: các hàng chữ san sát nhau, thế mà bà vẫn cần một tờ thứ hai. Sau
cùng bà đọc kỹ một lần nữa, bà xếp lại và cho vào một bao thư, bên ngoài niêm
phong bằng xi đỏ… Chỉ có Pađy, Fiona, Bob, Jack và Meggie phải đi dự buổi
chiêu đãi; Hughie và Stuart nhẹ nhõm vì được ở nhà để lo cho hai em bé. Thật là
một trường hợp hết sức đặc biệt, Mary Carson đã trút hầu bao khá rộng rãi để
cho mỗi người một bộ quần áo đẹp nhất có thể có được ở Gilly này. Khi Fiona và
Pađy ra khỏi phòng, mấy đứa con trai của hai ông bà hết sức ngạc nhiên chưa bao
giờ chúng lại nhìn thấy cha mẹ ăn mặc đẹp một cách vương giả như thế. Tuy nhiên
người gây sự chú ý hơn hết trong căn phòng này chính là Meggie. Có lẽ vì nhớ lại
thời nhỏ bị coi rẻ của mình và điên tiết vì các phụ nữ trẻ khác đều đặt may quần
áo ở Sydney nên chị thợ may ở Gilly đã đặt hết tài năng vào chiếc áo của
Meggie. Đó là chiếc áo dài không có tay, cổ hở khá thấp. Fiona hơi ngại nhưng
Meggie lại nài nỉ mẹ chiều mình. Chị thợ may cam đoan rằng tất cả các thiếu nữ
bây giờ đều ăn mặc như thế, lẽ nào lại để Meggie ăn mặc như một đứa con gái nhà
quê, làm trò cười cho thiên hạ. Thế là cuối cùng Fiona đã nhân nhượng.
Pađy
đã há miệng khi đối diện với con gái mình nhưng ông đã kịp kìm chết lại và
không để lọt môi lời nào ra dù cho cổ họng ông nóng ran và ngứa ngáy. Bài học
cay đắng xảy ra ở nhà xứ với Frank tuy đã lâu, nhưng Pađy vẫn còn nhớ mãi. Ông
đưa tay về hướng con gái và mỉm cười dịu dàng. – Ồ, Meggie, con đẹp quá! Đến
đây, ba muốn đóng vai chàng hiệp sĩ hộ vệ con. Còn Bob và Jack lo cho mẹ con.
Tháng tới Meggie 17 tuổi và lần đầu tiên trong cuộc đời, Pađy cảm thấy mình
già. Còn Meggie, vẫn là đứa con gái yêu quí của ông. Không thể để bất cứ chuyện
gì làm hỏng sự xuất hiện lần đầu của Meggie trước đám đông. Cha Ralph vẫn mặc
chiếc áo thụng như thường lệ Không có một thứ thời trang nào của đàn ông lại
thích hợp với cha Ralph hơn là chiếc áo màu đen theo một kiểu cắt rất nghiêm
trang: rộng ra ở phía dưới, vô số nút chạy dài từ cổ xuống với chiếc thắt lưng
rộng viền đỏ. Mary Carson mặc toàn một màu trắng, xa tanh trắng, đăng ten trắng
và lông đà điểu trắng trên chiếc áo của bà. Fiona nhìn bà sửng sốt và không còn
có được thái độ thản nhiên như mọi khi. Cách ăn mặc của Mary Carson thật là lố
bịch giống như cô dâu trong ngày cưới, không thể nào tưởng tượng được. – Tại
sao bà ta lại đỏm dáng như một cô gái già thất tình bôi trét phấn son dị hợm.
Thật ra bà ta giống từng nét một bức ảnh nổi tiếng của nữ hoàng Victoria chụp
trước ngày chết. Mary Carson cười với Pađy và đặt tay lên vai em trai mình. –
Em có thể đưa tay ra dìu chị đến bàn ăn, Padraic. Còn cha Ralph sẽ đưa Fiona, mấy
đứa con trai thì đi theo Meggie – Con có khiêu vũ tối nay không, Meggie? Pađy
nhanh miệng trả lời cho con: – Nó còn nhỏ quá. Nó mới mưòi bảy tuổi. Nói xong
Pađy sực nhớ lại, một thiếu sót khác của gia đình mình là các con đều không hề
được tập nhảy. – Rất tiếc! Bà Mary Carson nói buông thõng. Cuộc chiêu đã thật
rình rang, một vũ hội rực rỡ, sáng chói, không thể nào quên. Đó là những lời
bình phẩm nghe được qua các cuộc trao đổi tối hôm đó. Royal O” Mara, từ
Inishmurray cách Drogheda 300 cây số cũng có mặt cùng vợ, các con trai và con
gái duy nhất. Dân chúng ở trong vùng không ngại đường xa 300 cây số để đến dự một
trận đấu cricket, môn thể thao ưa thích ở Úc, không thể tưởng tượng là họ đi một
đoạn dài như thế dự một cuộc tiếp tân. Duncan Gordon đến từ Each Uisgẹ Martin
King với vợ, con trai Anthony và cô con dâu; Evan Pugh từ Braich Y
Pull;
Dominic O” Rourk từ Dibban Dibban, Horry Hoperton từ Beel – Beel và hơn một chục
nhân vật tiếng tăm khác trong vùng. Hầu hết theo đạo Công giáo và rất ít người
trong số họ mang tên Anglo – Saxon; số người Irish, Scottish và Welsh gần bằng
nhau. Có người đồn rằng bà Mary có đủ tiền để mua và bán cả vua nước Anh nữa.
Bà ta đầu tư khai thác thép, bạc, chì, thiếc, đồng và vàng, bỏ vốn vào hàng
trăm xí nghiệp. Drogheda từ lâu không còn được coi là nguồn sinh lợi chính của
bà; thu nhập ở điền trang này không còn có nghĩa lý gì và chỉ là một công việc
làm chơi cho vui của Mary. Cha Ralph không nói chuyện với Meggie trong buổi ăn
và cả sau đó. Suốt buổi chiêu đãi, ông quên hẳn Meggie. Như bị xúc phạm, cô gái
cứ theo dõi ông khắp phòng. Cảm nhận được sự xao xuyến ở Meggie, cha Ralph đến
gần cô bé, cắt nghĩa cho cô rõ nếu ông tỏ ra chú ý Meggie hơn các cô gái khác
như Carmichael, Gordon hay O” Mara chẳng hạn thì tiếng tăm của hai người có thể
bị ảnh hưởng xấu. Cũng như Meggie, cha Ralph không khiêu vũ và cũng như cô, ông
thu hút sự chú ý của nhiều thiếu nữ; cả hai đẹp hơn hẳn tất cả những người có mặt.
Pađy và Fiona vẫn ở lại chơi nhưng vào nửa đêm, Bob và Jack cùng Meggie rời khỏi
cuộc vui. Cha mẹ họ không hay họ đã đi chơi nơi khác. Khi Meggie rời khỏi
phòng, cha Ralph thấy mình trẻ hơn ít nhất mười tuổi. Ông trở nên sinh động và
gây ngạc nhiên cho các cô gái như Hopeton, Mackail, Gordon và O” Mara về những
bước nhảy với Carmichael. Sau đó, cha Ralph mời lần lượt tất cả các thiếu nữ,
luôn cả Pugh, xấu xí nhất. Không một người khách nào có thể than phiền rằng con
gái mình đã mất cơ hội khiêu vũ với cha De Bricassart. Đến ba giờ sáng, Mary
Carson đứng lên một cách nặng nề và ngáp: – Không, cuộc vui cứ tiếp tục! Nếu
tôi mệt – quả thật tôi đã mệt – tôi sẽ đi nằm, đó cũng là ý định của tôi; nhưng
thức ăn và đồ uống không thiếu, còn dàn nhạc đã được trả tiền để chơi cho đến
khi không còn một ai muốn nhảy nữa mới thôi. Hơn nữa có một chút ồn ào chỉ dỗ
giấc ngủ tôi thêm nhiều mộng đẹp. Thưa cha, cha có thể giúp đưa tôi lên lầu được
không? Khi rời khỏi phòng chiêu đãi, bà không đi đến cầu thang rộng uy nghi dẫn
lên lầu, mà lại hướng cha Ralph cùng đến phòng khách. Trông bà có vẻ mỏi mệt, dựa
cả người vào cánh tay của cha Ralph. Cửa phòng đóng kín, bà chờ linh mục dùng
chìa khóa do bà trao để mở cửa. Bà đi vào trước. – Cuộc chiêu đãi thành công đấy
bà Mary ạ, ông nói. – Đây là lần cuối cùng tôi tổ chức, thưa cha.
–
Không nên nói thế, bà Mary thân mến. – Tại sao? Tôi đã chán sống và tôi sẽ kết
thúc cuộc sống ở đây. Cha không tin à? Trong hơn 70 năm, tôi luôn luôn làm đúng
những gì tôi muốn. Cho nên nếu thần chết nghĩ rằng hắn có quyền chọn lựa giờ
phút ra đi của tôi thì hắn sai lầm vô cùng. Tôi sẽ chết vào đúng cái lúc tôi chọn,
mà tuyệt nhiên không phải là tự tử. Chính lòng ham sống giúp cho chúng ta tồn tại;
chấm dứt cuộc sống không khó khăn đâu nếu chúng ta thật sự muốn. Tôi đã mỏi mệt
và tôi muốn chấm dứt. Rất đơn giản. Cha Ralph cũng thế, rất mỏi mệt, không phải
mỏi mệt với cuộc sống mà về cái bề ngoài không thay đổi ông phải núp ở phía
sau, mỏi mệt vì không khí nhàm chán, sự thiếu vắng bạn tri kỷ và mỏi mệt cả với
chính mình. Căn phòng lờ mờ dưới ánh sáng của một cây đèn dầu bằng thủy tinh
màu hồng ngọc rất quí, ánh đèn tỏ ra những vệt sáng màu hồng lên mặt bà Mary
Carson, làm cho đường nét cứng rắn của quai hàm bà càng trở nên ma quái. Cha
Ralph thấy nhức ở chân, ở lưng, lâu rồi ông không khiêu vũ nhiều như thế mặc dù
ông vẫn tự hào không bị lạc hậu với những kiểu nhảy mới nhất. Ba mươi lăm tuổi
rồi nhưng vẫn là linh mục ở nông thôn… Vậy thì đến bao giờ mới trở thành một
nhân vật đầy quyền lực của Nhà thờ? Giấc mộng kết thúc trước khi bắt đầu – Ô
hô! Những giấc mơ của thời trẻ! Và những lời nói vô tâm, sự sôi nổi của tuổi trẻ.
Ông đã thiếu bản lĩnh để chiến thắng thử thách. Nhưng không bao giờ ông lặp lại
sai lầm cũ, không bao giờ, không bao giờ… Không giữ vững được chỗ đứng của
mình, ông thở dài, đâu còn gì? Dịp may không đến hai lần. Đã đến lúc nhìn thẳng
các sự việc, chấm dứt hy vọng và mơ mộng. – Cha Ralph có nhớ không, tôi đã từng
nói với cha rằng tôi sẽ đánh bại cha ngay trên mảnh đất quen thuộc của cha, và
tôi sẽ làm cho cha bị sụp vào chính cái bẫy của cha? Tiếng nói khôn khan kéo
cha Ralph ra khỏi những ý tưởng đang đeo đuổi trong lúc buồn chán. Ông nhìn
Mary Carson và cười. – Bà Mary thân mến, tôi không quên bất cứ điều gì mà bà đã
nói. Tôi tự hỏi tôi sẽ làm gì nếu trong những năm qua không có sự giúp đỡ của
bà. Trí tuệ của bà, sự khôn ngoan và nhạy cảm của bà trước các sự việc… – Nếu
tôi trẻ hơn, tôi đã chinh phục ông bằng cách khác, Ralph. ông không bao giờ biết
tôi khát khao đến mức nào được lùi lại ba mươi năm. Nếu có con quỷ nào xuất hiện
tặng tôi cái xuân sắc đổi lấy linh hồn tôi, tôi sẽ không hề do dự một phút và
cũng không bao giờ tiếc về cuộc thỏa
thuận
ấy như tên già ngu ngốc Faust đâu. Nhưng thôi đừng điên rồ… Tôi không thể tin
vào Chúa lẫn quỉ, ông dư biết. Tôi không thấy có gì chứng tỏ cả hai đều tồn tại.
Còn cha? – Đúng là lý luận hơi đơn giản. – Có thể. – Tôi nghĩ rằng con người đã
mang sẵn đức tin trong mình ngay khi vừa sinh ra. Về phần tôi, đó là cuộc đấu
tranh không ngừng với bản thân, nhưng không bao giờ tôi bỏ cuộc. – Thế mà tôi lại
rất muốn làm ông bỏ cuộc. – Ô, bà Mary thân mến! Điều đó tôi đã biết! Ông nói với
một thoáng đùa, đôi mắt như nhuộm màu nâu xám dưới ánh đèn. – Nhưng cha có biết
tại sao không? Một cảm giác sợ hãi tràn ngập cha Ralph. Bỗng chốc ông nhận ra
con người đầy nhược điểm của mình nhưng ông liền lùi ý nghĩ đó. – Tôi biết, bà
Mary ạ. Hãy tin tôi, tôi cảm thấy xót xa về điều đó. – Ngoài mẹ của ông ra, bao
nhiêu phụ nữ đã yêu ông rồi? – Mẹ tôi có yêu tôi không? Tôi tự hỏi điều đó. Dù
sao thì cuối cùng tôi vẫn bị mẹ tôi căm ghét. Phần đông phụ nữ đều như thế cả.
Đáng lý tên tôi phải là Hippolyte. – Ồ! Điều đó giải thích rất nhiều. – Còn những
người phụ nữ khác, tôi chỉ thấy có Meggie… Nhưng đó là một cô gái còn bé. Chắc
không quá đáng chút nào khi nói rằng có hàng trăm phụ nữ muốn tôi. Nhưng còn
yêu tôi? Tôi nghi ngờ điều này lắm. – Còn tôi, tôi đã yêu ông. – Bà nói giọng
xúc động. – Không đâu, tôi chỉ là một chất kích thích tuổi già của bà, không
hơn không kém. Khi bà nhìn tôi, tôi làm bà sực nhớ tất cả những ham muốn mà tuổi
tác đã ngăn chặn bà lại. – Ông lầm rồi. Tôi đã yêu ông. Yêu thiết tha. ông nghĩ
rằng tuổi già không cho tôi có thể yêu à? Thế thì, cha Ralph hãy nghe tôi nói
điều sau đây. Bên trong cái thân xác quái đản này, tôi vẫn còn trẻ… Tôi còn cảm
giác, còn khát khao, còn mơ mộng, tôi vẫn giậm chân và bực tức trước những thua
thiệt của thân xác già nua này. Tuổi già là sự trừng phạt cay đắng nhất mà Chúa
bắt chúng ta phải chịu. Tại sao Người lại không làm cho tâm hồn già đi cùng một
lúc với tuổi tác? Tất nhiên tôi sẽ xuống địa ngục. Nhưng trước đó tôi hy vọng sẽ
có dịp nói với Đấng tối cao rằng ngài là kẻ tồi tệ, khô khan và đáng khinh bỉ dường
nào.
–
Bà góa bụa quá lâu, bà Mary. Chúa đã ban cho bà sự tự do chọn lựa, đáng lý bà
nên đi thêm một bước nữa nhưng rồi bà vẫn quyết chọn cuộc sống độc thân, vậy
thì bà chỉ nên trách mình, chứ không thể trách Chúa được. Một lúc im lặng, bà bấu
chặt lấy hai bên chiếc ghế bành, và cảm thấy dễ chịu trở lại khi mở mắt ra. Dưới
ánh đèn dầu, đôi mắt ấy đỏ và long lanh nhưng vẫn không có một giọt nước mắt,
có cái gì đó đau đớn hơn, trong suốt hơn những giọt nước mắt giấu kín. Cha
Ralph không dám thở mạnh, ông cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng bà ta chẳng khác gì
con nhện cái. – Cha Ralph, trên bàn viết của tôi có một phong bì. Xin ông vui
lòng mang lại cho tôi, cảm ơn ông nhiều lắm. Cha Ralph e dè đứng lên đi đến bàn
và cầm lấy phong bì với một chút tò mò. Phong bì trắng dán kín, nguyên phía sau
đóng xi đỏ con dấu riêng của Mary Carson hình đầu con cừu đực và chữ D bao
chung quanh. Ông mang lại cho bà Carson nhưng liền đó bà ra dấu mời ông ngồi xuống
và đưa phong bì ra phía trước. – Phong bì này của ông – bà nhếch miệng cười –
và số phận của ông ở trong đó. ànghĩa của phong bì này là như thế. Thật tiếc vô
cùng, tôi không còn có mặt ở trên cỏi đời này để chứng kiến những gì sẽ xảy ra,
nhưng tôi đoán biết được chuyện ấy, vì rằng tôi biết rõ ông, biết ông nhiều hơn
ông tưởng. Con người ông kiêu hãnh không thể chịu nổi! Phong bì chứa đựng số phận
cuộc đời và cả linh hồn ông đấy. Tôi đành phải nhường ông cho Meggie nhưng tôi
an tâm vì đã có cách để con bé này cũng sẽ không có được ông. – Tại sao bà lại
cay cú với Meggie đến thế? – Tôi đã nói với ông rồi. Tại vì ông yêu nó. – Nhưng
tình yêu ấy không như bà hiểu. Meggie đáng tuổi con tôi, mà tôi thì không bao
giờ có con được, cô ấy là niềm vui của đời tôi. Bà Mary ạ, Meggie đối với tôi
là một ý niệm, đúng là một ý niệm! Bà già cười cay độc: – Tôi không muốn chúng
ta nói về Meggie quí báu của ông! Tôi sẽ mãi mãi không gặp lại ông do đó tôi
không muốn mất thì giờ về chuyện của con bé ấy. Trở lại cái thư, tôi muốn rằng
ông thề với tôi, lời thề của một linh mục rằng ông sẽ không mở phong bì trước
khi chính ông tận mắt nhìn thấy cái chết của tôi. Ông chỉ mở thư ra trước khi
tôi được chôn cất. Ông hãy thề đi. – Không cần thế bà Mary ạ. Tôi sẽ làm đúng
như lời yêu cầu của bà. – Ông hãy thề đi, nếu không tôi lấy lại phong thư đấy.
–
Thế thì… tôi đồng ý – cha Ralph nhún vai. Đây là lời thề của một linh mục,
tôi xin thề, sẽ không mở thư ra trước khi nhìn tận mắt bà đã chết, và sẽ đọc thư
này trước khi bà được chôn cất. – Tốt lắm, tốt lắm. – Bà Mary, xin bà đừng lo lắng!
Chẳng qua đây cũng là một ý nghĩ ngông cuồng đùa giỡn của bà thế thôi. Sáng mai
bà lại cười về chuyện này đấy. – Tôi sẽ không thấy cái sáng mai ấy. Tôi sẽ chết
đêm nay; tôi không quá yếu đuối để nán lại chờ giây phút sung sướng được nhìn
thấy ông lần nữa. Không lẽ tôi lại tuột dốc đến thế sao! Tôi đi nghỉ đây. Ông sẵn
sàng đưa tôi lên đến đầu cầu thang chứ? Cha Ralph không tin điều bà Mary Carson
nói nhưng biết rằng cãi lại cũng vô ích, vả lại bà ta đang trong tâm trạng bất ổn
không nên làm buồn lòng bà bằng một chuyện bông đùa. Chỉ có Chúa là định cái chết
của một con người, ngoại trừ trường hợp theo ý muốn riêng mà ngay cả ý muốn đó
cũng do Chúa đã ban cho ta có thể tự kết liễu đời mình. Nhưng bà đã nói rằng bà
sẽ không tự tử mà. Cha Ralph dìu bà ta bước lên từng bậc thang, bà tỏ ra rất mệt
và cần được giúp thật sự. Đến cuối cầu thang, ông cầm hai tay của bà lên, cúi
xuống định hôn nhưng bà ra rút tay lại. – Riêng đêm nay, tôi không muốn nhận một
cái hôn như thế. Hôn trên môi, Ralph. Hãy ôm hôn vào môi tôi như thể chúng ta
là đôi tình nhân! Dưới ánh sáng rực rỡ của cây đèn chùm lớn được thắp đến 400
ngọn nến, bà nhận ra gương mặt của linh mục một vẻ thật kinh tởm, bất giác bà
lùi lại. Bấy giờ bà muốn chết đi, muốn một cách mãnh liệt không thể nào chần chờ
được nữa. – Bà Mary, tôi là linh mục! Tôi không thể làm chuyện đó. Mary Carson
cười lớn, tiếng cười chát chúa, quái dị – Ồ, Ralph, ông đúng là một kẻ lừa bịp!
Lừa bịp với tư cách con người và lừa bịp với tư cách một linh mục: ông chẳng là
gì hết, Ralph ạ. Một tên lừa bịp bất lực, vô ích! Một thứ đàn ông bất lực và một
linh mục bất lực!
CHƯƠNG
13
goài
kia bình minh chưa rõ nét, kể cả vầng sáng xuất hiện trước đó. Bóng tối êm ái,
dày đặc, trong không khí nóng bức còn phủ trùm lên cả Drogheda. Đi đến đầu bên
kia bãi cỏ, cha Ralph đứng sững lại, ngước mắt nhìn lên trời, tìm kiếm Thượng đế
bằng cái ăn ten hoàn toàn bản năng của mình. Đúng rồi, ở một nơi nào đó trên
cao, giữa cái chấm li ti phát ra thứ ánh sáng tinh khiết và vời vợi, có gì ở giữa
màn đêm này? Chỉ cần nhìn vòm trời đầy sao cũng đã thuyết phục con người tin
vào sự vĩnh cửu tồn tại của Chúa. Tất nhiên bà ta có lý. Một kẻ bịp. Đúng thật
là một kẻ bịp. Chẳng ra linh mục chẳng ra đàn ông. Phải chi có ai đó thử tìm hiểu
thế nào là người này hoặc người kia. Không! Chẳng phải người này, chẳng phải người
kia! Linh mục và đàn ông không thể tồn tại chung với nhau – là đàn ông có nghĩa
là không là linh mục. Tại sao tôi lại để chân kẹt trong mạng nhện của bà ta? Nọc
độc của bà ta thật là dữ dằn, nham hiểm nhiều hơn tôi tưởng tượng. Trong thư chứa
đựng điều gì? Có vẻ như bà ta muốn nhử ta! Bà ta đã biết gì, đoán gì? Cái gì ở
ta mà bà muốn biết hay muốn đoán? Chỉ có sự trống rỗng và sự cô đơn. Hoài nghi
đau khổ. Luôn luôn đau khổ. Tuy nhiên, bà đã lầm rồi bà Mary ạ. Tôi vẫn có khả
năng làm người đàn ông, tôi không bất lực. Chẳng qua là tôi đã lựa chọn và tôi
đã trải qua nhiều năm tự mình chứng minh rằng cái phút giây nổi dậy của thể xác
có thể kìm chế được. Có ai đó khóc thì thầm trong nghĩa trang. Đúng là Meggie.
Cha Ralph kéo cao áo choàng lên, leo qua hàng rào sắt, không cưỡng lại được
lòng háo hức muốn gặp Meggie vì tối qua ông chưa kịp từ giã. Bản tính dửng dưng
đùa cợt trở lại với ông, bà ta không thể nào kéo ông ra khỏi cái bóng hình vẫn
ám ảnh ông. Con nhện già nham hiểm! Cầu Chúa trừng phạt bà ta bị rữa thây ra. Bị
rữa thây ra. – Meggie thương yêu, đừng khóc nữa – ông ngồi xuống cạnh cô gái
trêm thảm cỏ ướt đẫm sương. Cha đoán chắc con không mang theo khăn tay. Cầm lấy
khăn của cha, lau nước mắt đi, ngoan nào. Meggie cầm mảnh vải và vâng lời lau nước
mắt. – Con chưa thay cả chiếc áo đẹp này à. Con ngồi đây từ nửa đêm phải không?
– Con nói với hai anh là con đi ngủ. – Thế thì tại sao con ra đây? Có chuyện gì
hả Meggie? – Hồi hôm, cha không nói với con một lời. Xa xa về phía Đông trời ửng
lên chút ánh sáng màu ngọc trai. N
Mấy
con gà trống ở Drogheda đón hiệu bình minh bằng tiếng gáy rát cả cổ họng. Bấy
giờ cha Ralph nhìn rõ dấu vết của những giọt nước mắt đêm qua không làm mờ được
ánh mắt tuyệt đẹp của Meggie. – Meggie, trong buổi tiếp tân đêm qua, con là cô
gái xinh đẹp nhất, không có ai sánh bằng. Nhưng người ta cũng biết cha thường đến
Drogheda nhiều hơn là công việc thật sự đòi hỏi. Cha là linh mục, vì thế, cha đứng
trên mọi sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cha e người ta không nhìn các sự việc bằng con
mắt ấy. Trong các linh mục, cha được coi là người còn trẻ và dễ coi. Nếu cha
chú ý và con một chút thôi thì cả Gilly này sẽ biết tức khắc. Rồi tất cả các đường
dây điện thoại sẽ loan truyền tin ấy. Con có hiểu cha nói gì không? Meggie lắc
đầu, những lọn tóc quăn óng ánh càng lúc càng rực rỡ dưới ánh mặt trời. – Con
còn quá trẻ để hiểu các chuyện rắc rối của đời này – ông nói tiếp – nhưng cha
phải cho con biết dần. Và hình như, cũng lại chính cha là người dạy dỗ con. Điều
mà cha muốn con phải hiểu là dư luận đồn đãi rằng cha chú ý đến con với tư cách
đàn ông, chứ không phải với tư cách linh mục. – Thưa cha… – Ghê tởm, phải
không Meggie? – ông mỉm cười – nhưng đó là điều mà họ nói, cha đoan chắc với
con thế. Con phải hiểu, Meggie, con không còn là đứa trẻ con nữa, con là một cô
gái. Thế nhưng con lại chưa biết che giấu tình cảm mà cha dành cho con, nếu cha
đến gần con, nói chuyện với con trước nhiều người đang theo dõi thì ánh mắt của
con sẽ tự thú con ngay, và người ta không thể không hiểu sai trái thái độ của
con. Meggie nhìn cha Ralph một cách hơi kỳ lạ, không thể nào hiểu được. Meggie
quay đi nơi khác và cha Ralph chỉ nhìn thấy một nửa gương mặt. – Vâng, con đã
hiểu. Trước đây con thật là ngu đần không hiểu điều ấy. – Con thấy đã đến lúc
phải về nhà chưa? Hiện giờ hầu hết mọi người còn ngủ nướng trên giường, nhưng lỡ
có ai thức dậy sớm như mọi khi, con lại gặp rắc rối đấy. Con không thể nói con
vừa đi với cha về mà cũng không thể nói con đã có mặt ở nhà, Meggie ạ. Meggie đứng
lên, bất động một lúc, mắt nhìn xuống cha Ralph. – Con đi đây, thưa cha. Nhưng
con cầu mong mọi người hiểu cha hơn, như thế sẽ không ai đặt điều những chuyện
như thế về cha. Nhưng có phải cha không hề vấn vương những ý tưởng như vậy?
Do
một chuyện gì đó, câu hỏi của Meggie làm tổn thương ông, tổn thương nặng nề, hậu
quả của nó còn hơn cả những lời châm chọc ác độc của Mary Carson. – Không,
Meggie. Con nói đúng. Cha không hề nuôi những ý tưởng như thế. Không, cha hoàn
toàn không nghĩ đến. Con về đi, Meggie. Con về nhà đi! Cha Ralph nhìn theo
Meggie đang chạy giữa các nấm mồ, rồi trèo qua hàng rào thấp. Dưới lớp áo dài
thêu những bông hoa hồng, thân hình của Meggie đẹp dịu dàng, đầy nữ tính và một
chút gì đó như không thật. Vào xế chiều cha Ralph có cảm giác một bàn tay chạm
nhẹ vào vai. Ông giơ tay định nắm lấy nhưng vẫn không đủ nghị lực để mở mắt ra.
Ông muốn giữ lại bàn tay ấy trên má mình. – Meggie, ông thì thầm. – Thưa cha,
thưa cha! Cha ơi hãy thức dậy! Giọng nói của bà Smith kéo ông ra khỏi cơn mê ngủ
và ông tìm lại ngay sự tỉnh táo. – Chuyện gì đó bà Smith? – Bà Mary Carson…
thưa cha. Bà đã chết. Đồng hồ đeo tay của ông chỉ sáu giờ hơn. Còn ngái ngủ và
mỏi mệt bởi cái nóng nặng nề của ban ngày, cha Ralph vội vàng cởi bộ đồ ngủ và
mặc vào chiếc áo chùng, choàng lên cổ chiếc khăn lễ, lấy dầu làm lễ xức nước
thánh, cây thánh giá lớn bằng bạc, tràng chuỗi hạt màu đen. Ông không cho rằng
bà Smith lầm lẫn. Ông biết là con nhện già đã chết. Bà ta có cố tình thúc đẩy
cái chết sớm hơn? Nếu như thế, cầu Chúa, bà không để lại một chứng cớ nào rõ rệt
và cái chết của bà không làm cho bác sĩ nghi ngờ. Làm lễ xức dầu cho bà ta có
ích lợi gì, ông cũng không biết, nhưng dù sao vẫn phải làm điều đó cho bà. Nếu
ông từ chối làm lễ, thì sẽ có cuộc điều tra, và rồi sẽ đẻ ra đủ thứ chuyện rắc
rối. Ông cho rằng bà Mary chết vì tự tử, thế thì làm lễ thánh trên thi thể của
bà là một sự xúc phạm đến những gì thiêng liêng nhất. Bà ta đã chết thật. Có lẽ
đã chết vài phút sau khi cha Ralph từ giã, như vậy là cách đây khoảng mười tiếng
đồng hồ. Các cửa sổ đều đóng thật kín, trong phòng có mùi ẩm của hơi nước chứa
trong mấy chiếc chậu. Khi còn sống bà vẫn làm như thế để giữ cho da luôn mát và
mịn. Có tiếng vo vo lạ tai trong không khí, sau một lúc ngơ ngác, cha Ralph nhận
ra đó là tiếng ruồi bay; từng đàn lượn quanh, kéo nhau bu lại thưởng thức buổi
tiệc thịnh soạn trên thi thể của bà Mary. Chúng bay qua lại, ghép đôi và đẻ trứng
trên cơ thể đã lạnh của bà. – Vì tình thương của Chúa, bà Smith hãy mở cửa sổ
ra.
Cha
Ralph kêu lên, hơi thở dồn dập. Mặt tái nhợt, ông đến gần giường. Một mùi hôi
thối khó chịu hơn cả con ngựa chết ở ngoài bãi. Ông ghê tởm không dám chạm vào
thi thể của bà cũng như ông đang ghê tởm không dám chạm vào người bà khi bà còn
sống, nhất là trên hai môi lúc nhúc đầy trứng ruồi. Cuối cùng thì mọi việc đều
xong xuôi. Cha Ralph đứng thẳng người lên: – Bà Smith, chạy đi báo cho ông
Cleary hay, nói với ông ấy ra lệnh cho các con trai đóng ngay một quan tài.
Chúng ta không còn thời giờ để chờ mang quan tài từ Gilly đến, thi thể của bà
đang thối ra. Lạy Chúa! Tôi muốn nôn ra và phải đi tắm ngay. Tôi để quần áo ở
ngoài cửa, bà hãy đem đốt giùm tôi. Mãi mãi tôi không thể tẩy xóa được mùi hôi
thối thấm vào người tôi. Trở về phòng riêng, cha Ralph mặc chiếc quần đi ngựa
và áo sơ mi, bỗng ông nhớ lại phong thư và lời thề của mình. Phong bì chứa bốn
tờ giấy; ông mở từng tờ và nhận ra ngay hai tờ sau là di chúc của Mary Carson.
Hai tờ đầu dưới hình thức thư riêng, viết cho ông. Ralph thân mến của tôi, Như
ông đã nhận ra, văn bản thứ hai chứa đựng trong phong bì này là di chúc của
tôi. Tôi có lập một di chúc khác, ký tên và đóng khằn lại hoàn toàn có giá trị,
hiện nằm tại văn phòng của Harry Gough ở Gilly. Di chúc trong phong bì này được
lập sau đó rất lâu, và tất nhiên nó có giá trị vô hiệu hóa di chúc mà Harry
đang giữ. Thật ra, tôi đã lập di chúc thứ hai chỉ cách đây mấy ngày. Tôi đã yêu
cầu Tom và người thợ làm hàng rào ký tên dưới di chúc với tư cách người làm chứng;
vì tôi hiểu biết rằng không thể gọi người được thừa hưởng để làm thủ tục này.
Văn bản hoàn toàn hợp pháp dù rằng người lập không phải là Harry. Không một tòa
án nào trong cả nước, có thể phủ nhận giá trị của bản di chúc sau, tôi cam đoan
với ông như thế. Nhưng tại sao tôi không yêu cầu Harry lập di chúc này nếu tôi
muốn sửa đổi nội dung của di chúc thứ nhất? Lý do thật đơn giản, Ralph thân mến
của tôi. Tôi thật lòng muốn không một ai ngoài tôi và ông sẽ biết là có tờ di
chúc này. Đây là bản duy nhất và bản này ở trong tay ông. Không một người nào
biết được việc này cả, đây là một phần rất quan trọng trong kế hoạch của tôi.
Ông có nhớ đoạn trong kinh thánh kể lại Xa tăng đưa Chúa Jesus Christ lên núi
và cám dỗ Người bằng cách hứa trao cho Người cả thế giới? Thật là thú vị nếu
tôi biết được tôi có một quyền lực của Xa tăng và tôi có khả năng cám dỗ người
tôi yêu (ông có hoài nghi về chuyện Xa tăng yêu Chúa? Tôi thì không) bằng cách
trao cho người ấy cả thế giới. Trường hợp của ông đứng trước
hai
con đường phải chọn đã luôn kích thích suy nghĩ của tôi trong suốt những năm gần
đây và khi tôi càng đến gần cái chết thì những gì tôi hình dung trong đầu lại
càng mang đến cho tôi nhiều thích thú. Sau khi đọc tờ di chúc, ông sẽ hiểu tôi
nói với ngụ ý gì. Trong khi tôi bị hỏa thiêu dưới địa ngục, bị loại ra khỏi cái
thế giới mà hiện giờ tôi biết thì ông vẫn còn sống, nhưng ông cũng sẽ bị thiêu
trong một địa ngục của những ngọn lửa dữ dội hơn các ngọn lửa mà không một thần
linh nào có thể tạo ra được. Ralph của tôi! Tôi đã tìm hiểu ông đến tận cùng! Rất
có thể tôi chẳng làm được việc gì khác nhưng tôi lại rất biết cách hành hạ những
người tôi yêu. Và ông là một con mồi vô cùng hấp dẫn so với người chồng quá cố
Michael thân yêu của tôi. Khi tôi mới biết ông, ông có ý muốn chiếm đoạt
Drogheda và tiền bạc của tôi, phải không Ralph? ông coi cả hai là một phương tiện
giúp ông mua cái quyền đạt tới giá trị mà ông mong muốn. Nhưng lúc đó, Meggie
xuất hiện và ông đã loại ngay trong đầu ông mọi ý nghĩ mua chuộc tôi, phải thế
không? Tôi đã trở thành cái bình phong cho các cuộc lui tới của ông ở Drogheda,
tạo cơ hội cho ông gặp cô bé ấy. Tôi tự hỏi ông có dễ dàng thay đổi sự trung
thành của ông hay không nếu ông biết đích xác tôi có một tài sản lớn như thế
nào. Ông hoài nghi phải không Ralph? Tôi nghĩ rằng ông không tin điều đó. Đúng
là rất khó coi về phía người để lại di chúc khi phải kê khai giá trị chính xác
của di sản, nhưng theo đánh giá của tôi, tôi thấy tốt hơn cứ nêu ra đây giúp
ông an tâm biết rằng ông có đủ các dữ kiện để lấy một quyết định khi thời điểm
đến. Nếu có sai lệch cũng chỉ khoảng vài trăm ngàn bảng, tài sản của tôi lên tới
trên 13 triệu đồng sterling. Tôi đang viết cuối trang hai và tôi không có ý định
nán lại lâu hơn nữa với lá thư này. Hãy đọc di chúc tôi, Ralph. Và khi đã đọc
xong, ông cứ quyết định lấy ông sẽ làm gì. Hoặc ông sẽ trao cho Harry Gough để
chính thức hóa, hoặc ông đốt nó đi và không nói một lời với bất cứ ai về sự tồn
tại của nó? Đây là một quyết định hoàn toàn thuộc quyền của ông. Tôi thấy cần
nói thêm rằng di chúc nằm ở văn phòng của Harry đã được tôi thảo ra một năm sau
khi Pađy đến đây. Trong di chúc đó, tôi để lại hoàn toàn tài sản cho em trai
tôi. Bây giờ thì ông biết chính xác chuyện gì được đặt ra với ông. Ralph, tôi
yêu ông đến mức tôi có thể giết ông vì ông đã xua đuổi tôi, nếu tôi không kịp
suy nghĩ lại cách trả thù đó là quá nhẹ nhàng. Tôi không thuộc loại người cao
thượng; tôi yêu ông, nhưng tôi muốn ông gào thét lên vì kinh hoàng. Vì rằng,
tôi biết rất rõ quyết định mà ông sẽ chọn. Tôi biết một cách chắc chắn như là
tôi ở đó đang nhìn ông. Ông sẽ gào thét lên, Ralph, và ông sẽ biết
thế
nào là nỗi kinh hoàng. Thế thì cứ đọc đi, chàng linh mục đẹp trai đầy tham vọng
của tôi! Hãy đọc di chúc của tôi và hãy quyết định số phận của mình. Lá thư
không có chữ ký, kể cả chữ ký tắt. Cha Ralph cảm thấy mồ hôi ướt đẫm trán mình,
nhỏ giọt từ gáy xuống lưng. Và ông muốn đứng dậy ngay, đem đốt cả hai văn bản,
không cần xem nội dung của tờ di chúc. Nhưng quả thật bà ta hiểu quá nhiều con
mồi của mình, cái con nhện già, phục phịch ấy. Tất nhiên rồi linh mục lại tiếp
tục đọc văn bản thứ hai. Ông quá tò mò để có thể chống lại sự cám dỗ. Chúa ơi!
Ông đã làm gì mà để cho bà ta nhận chìm vào một cơn xoáy kinh khủng như thế? Tại
sao phụ nữ lại mang đến cho ông lắm khổ lụy? Tại sao thân xác ông không lùn thấp,
tật nguyền, xấu xa? Nếu được như thế, biết đâu ông sẽ hạnh phúc? Hai tờ giấy
kia của di chúc cũng cùng một tuồng chữ nhỏ nhắn và chi li. Cũng ti tiện và hằn
thù như lòng dạ đàn bà. Tôi ký tên dưới đây là Mary Carson, khỏe mạnh và sáng
suốt, tuyên bố đây là di chúc của tôi, có giá trị vô hiệu hóa và tiêu hủy các
di chúc cũng do tôi lập ra trước đây. Ngoại trừ các vật di tặng nêu ra dưới
đây, tôi để lại toàn bộ động sản và bất động sản cho Tòa thánh La Mã, với những
điều kiện sau đây: Thứ nhất, Tòa thánh La Mã đã nêu trên (dưới đây sẽ gọi tắt
là Tòa thánh) phải hiểu rằng tôi đã kính trọng và thương yêu như thế nào người
đại diện của Chúa, cha Ralph. Duy nhất vì long nhân đức của cha, do sự biết ơn ở
người đã hướng dẫn linh hồn tôi, do sự giúp đỡ mà cha mang đến cho tôi và không
bao giờ từ chối, chính vì những lý do ấy mà tôi đã để lại toàn bộ tài sản của
tôi cho Tòa thánh. Thứ hai, Tòa thánh tiếp tục hưởng các quyền lợi của di sản
này cho đến khi Tòa Thánh còn thừa nhận phẩm giá và khả năng của cha Ralph nói
trên. Thứ ba, chính cha Ralph đã nêu có trách nhiệm quản lý và điều hành tất cả
động sản và bất động sản với tư cách là người quản lý chính của di sản này. Thứ
tư, nếu cha Ralph được nêu trên qua đời thì tờ di chúc của cha sẽ được nhìn nhận
về mặt pháp lý liên quan đến sự quản lý tiếp tục tài sản của tôi. Có nghĩa là Tòa
thánh vẫn tiếp tục làm chủ tài sản này nhưng linh mục Ralph là người duy nhất
có thẩm quyền chỉ định người thay thế cha để quản lý. Không bắt buộc người thay
thế cha Ralph phải được chọn trong giáo sĩ hay người ngoài giáo hội, theo đạo
Công giáo. Thứ năm, điền trang Drogheda không được bán hay phân chia.
Thứ
sáu, em tôi Padraic Cleary, phải được giữ lại làm người quản lý điền trang
Drogheda, được quyền ở lại tòa nhà của tôi và được trả hàng tháng một số tiền lương
mà chỉ có cha Ralph biết được mà thôi. Thứ bảy, trong trường hợp em tôi Padraic
Cleary qua đời, thì vợ em tôi và các con em tôi được quyền tiếp tục ở tòa nhà
đó và cương vị quản lý điền trang sẽ trao cho các con của em tôi theo thứ tự
Rober, John, Hugh, Stuart, James va Patrick; danh sách này loại Francis. Thứ
tám, khi Padraic qua đời và đứa con cuối cùng của em tôi cũng qua đời thì các
quyền lợi dành cho Padraic Cleary sẽ được chuyển sang các cháu của em tôi. Những
di tặng riêng. Để lại cho Padraic Cleary tất cả đồ đạc trong các ngôi nhà nằm trên
đất của điền trang Drogheda. Bà Eunice Smith, quản gia của tôi, được quyền ở lại
cương vị hiện nay của bà với số lương xứng đáng cho đến khi nào tùy ý muốn của
bà, ngoài ra trao ngay cho bà số tiền năm ngàn bảng Anh. Khi bà về hưu, trả cho
bà một trợ cấp đầy đủ. Với Minerva O” Brien và Catherine Donnelly, cả hai được
quyền ở lại cương vị mình cho đến khi nào tùy ý. Trao cho mỗi người một ngàn bảng
Anh ngay bây giờ và khi về hưu cả hai nhận một số tiền trợ cấp đầy đủ. Với cha
Ralph, hàng năm hưởng một số tiền là mười ngàn bảng Anh, như thế suốt cả đời, để
cho cha sử dụng việc riêng không cần báo cáo. Tờ di chúc có chữ ký hợp lệ, ghi
rõ ngày tháng và có chữ ký người chứng. Phòng của cha Ralph nhìn ra hướng Tây.
Mặt trời đang lặn. Màn bụi mỏng xuất hiện vào mỗi mùa hè phủ lên cả không gian
đang chìm trong yên lặng. Các tia mặt trời xuyên qua màn bụi li ti ấy không
khác gì những ngón tay, tất cả sáng rực lên màu vàng ánh và màu tía. – Hoan hô
Mary! Ông nói một mình. Bà Mary ơi, tôi phải nhìn nhận là bà đã thắng tôi. Một
đòn của bậc sư, tôi là người bị lừa, chứ không phải bà. Nước mắt rơi xuống từ
lúc nào làm cha Ralph không còn nhìn thấy rõ các tờ giấy đang cầm trên tay; ông
vội vã đưa ra xa để tránh khỏi bị nhòa. Mười ba triệu đồng bảng Anh. Mười ba
triệu đồng bảng Anh. Đúng lắm, đó là mục tiêu mà ông nhắm đến trước thời gian
ông gặp Meggie. Với sự xuất hiện của Meggie, ông đã bỏ rơi kế hoạch vì rằng ông
không thể lạnh lùng tiến hành một chiến dịch mà ông biết cuối cùng truất quyền
thừa kế của Meggie.
Nhưng
nếu ông biết trước chính xác tài sản của con nhện già kếch sù như thế thì ông
đã như thế nào? Phản ứng của ông sẽ ra sao? Ông không bao giờ tưởng tượng rằng
Mary Carson có thể để lại cho ông một phần mười số tiền này, nói chi mười ba
triệu đồng bảng Anh? Suốt bảy năm, Pađy và gia đình sống âm thầm trong ngôi nhà
dành cho viên quản lý. Mọi người trong gia đình làm việc cật lực cho Mary
Carson? Vì cái gì? Vì khoản tiền công bủn xỉn của bà ta sao? Chưa một lần cha
Ralph chứng kiến Pađy than phiền sự đối xử keo kiệt của người chị, có lẽ Pađy
nghĩ rằng ông ta sẽ được đền bù lại khi Mary Carson qua đời. Pađy chịu đựng đến
mức quen dần và cuối cùng yêu thương Drogheda như điền trang này cũng sẽ thuộc
về ông thôi. – Mary, bà thật là tinh quái, cha Ralph lặp lại một mình. Lần đầu
tiên kể từ thuở ấu thơ, những giọt nước mắt rơi đầm đìa trên tay ông nhưng
không hề rơi lên tờ di chúc. Mười ba triệu bảng Anh; và còn có cả khả năng trở
thành Hồng Y Bricassart. Dĩ nhiên là bằng cách tước đoạt quyền thừa kế của
Pađy, vợ ông ta, các con trai ông ta – và Meggie. Trời ơi, hình như bà ta đã hết
sức quỷ quái thấy được cả ruột gan của mình! Nếu Mary tước đoạt công sức Pađy,
một cách trần trụi, thì con đường của cha Ralph được vạch ra quá rõ ràng: ông
ta sẽ cầm ngay tờ di chúc, đứng lên đi xuống bếp, và ném nó vào lò lửa không một
chút do dự. Nhưng không, Mary Carson không làm thế, bà lại bảo đảm cho Pađy
không túng thiếu, lại có được một cuộc sống dễ thở hơn ở Drogheda sau cái chết
của bà ta, mặt khác điền trang này cũng không hẳn truất khỏi tay ông. Thu nhập
các loại của điền trang và quyền sở hữu ông không được hưởng, đúng thế, nhưng
ông vẫn ở trên đất đó. Vâng, ông không làm chủ cái tài sản kếch sù 13 triệu bảng
Anh, nhưng ông vẫn được kính trọng và sống một cách đầy đủ. Meggie không bao giờ
đói, không bị tước đoạt tất cả. Có điều là Mary Carson không tạo điều kiện cho
Meggie sánh ngang vai với tiểu thư Carmichael và giới thượng lưu thuộc địa.
Hoàn toàn được kính trọng, được chấp nhận trong giới giàu sang nhưng không bao
giờ thuộc hẳn vào tầng lớp bên trên. Không bao giờ. Mười ba triệu bảng Anh. Đủ
điều kiện để rời bỏ Gillanbone và bóng tối vĩnh cửu, tạo được một vị trí trong
hàng chức sắc của Nhà thờ, được lòng những người ngang hàng và cả với các đấng
bề trên. Tất cả những điều thuận lợi ấy đến giữa lúc ông còn trẻ, còn có thể
tranh thủ những gì bị bỏ dở lâu nay. Mary Carson đã biến Gillanbone thành trung
tâm lãnh địa dành riêng cho Đức Tổng giám mục đại diện của Giáo hoàng. Dư âm của
sự việc này sẽ vang dội đến Vatican, đó là cách trả thù của bà. Dù cho giáo hội
giàu có đến đâu, mười ba triệu bảng Anh vẫn là mười ba triệu bảng Anh. Đó không
phải là một số tiền có thể coi nhẹ, dù với giáo hội đi nữa. Và chính cha
Ralph
là người duy nhất có thể đưa tài sản kếch sù ấy về cho Nhà thờ, ông là người đã
được nhìn nhận tờ di chúc; chính bà Mary Carson đoán trước điều đó, cầu Chúa
đày mụ già này mục xương dưới địa ngục! Nhưng chắc chắn Pađy sẽ giận dữ, sẽ từ
chối nhìn mặt và từ nay chẳng thèm nói một lời nào với ông. Nhưng dù có giận dữ,
ông ấy cũng sẽ không kiện được ra tòa. Thật sự có cần lấy một quyết định không?
Quyết định ấy, cha Ralph đã biết rồi. Ngay lúc vừa đọc tờ di chúc ông đã biết sẽ
phải phản ứng như thế nào. Nước mắt đã khô ráo. Cha Ralph đứng lên, nhẹ nhàng
và gọn gàng như mọi khi, ông xem lại chiếc áo sơ mi bỏ vào quần đã gọn gàng chưa,
rồi đến gần cửa. Ông phải đi ngay Gilly, để lấy chiếc áo dòng và các thứ khác để
làm lễ tang. Nhưng trước hết, ông phải nhìn mặt Mary lần cuối. Các cửa sổ vẫn mở
toang nhưng mùi hôi thối vẫn xông lên, không có một ngọn gió nhẹ. Đi những bước
dứt khoát, ông đến gần giường, nhìn xuống. Những trứng ruồi đẻ đã bắt đầu nở
thành dòi, lổn ngổn trên gương mặt có nhiều nơi ẩm ướt. Bàn tay và cánh tay
Mary đã sình lên, da nứt ra với những đốm màu xanh tái. Ôi lạy Chúa! Sao con nhện
già lại gớm ghiếc như thế. Nhưng mụ sẽ không bao giờ thắng được Meggie của ta,
không thể nào tước đoạt ở Meggie những gì không thuộc về mụ. Rất có thể ta cũng
bị thiêu ở hỏa ngục kế bên mụ nhưng ta biết trước hỏa ngục dành cho mụ như thế
nào: mụ mong muốn vô cùng hai chúng ta sẽ cùng nhau rục xương trong vĩnh cửu nhưng
mụ sẽ vẫn thấy ta hết sức dửng dưng trước mụ. … Cha Ralph trầm ngâm khá lâu,
lâu hơn thời gian đi về nhà xứ và trở lại. Trước khi về nhà, ông đã ghé lại nhà
của Harry Gough ở Gillanbone. Harry Gough vừa ngồi vào bàn ăn, đứng dậy và đi
thẳng vào phòng khách khi được chị giúp việc báo tin cha Ralph đến. – Thưa cha,
xin mời cha dùng cơm. Có thịt bò nấu nhừ với khoai tây luộc, đặc biệt thịt bò
không mặn lắm. – Không, cảm ơn Harry, tôi không thể dùng cơm với ông được. Tôi
ghé qua đây để cho ông biết bà Mary Carson đã mất sáng naỵ – Chúa ơi! Tôi mới dự
buổi tiếp tân của bà tối hôm qua! Bà ta trông khỏe mạnh lắm thưa cha! – Đúng thế.
Bà ta còn rất khỏe khi tôi dìu bà lên cầu thang hồi ba giờ, nhưng hình như bà
chết ngay khi nằm xuống. Bà Smith phát hiện điều đó vào lúc sáu giờ chiều hôm
nay. – Ngày mai sẽ chôn? – Phải, chôn ngày mai.
–
Nhờ cha nói cho ông Pađy biết tôi sẽ mang di chúc của bà Mary Carson đến để kịp
mở ra đọc ngay sau khi mai táng. Cha cũng là một trong những người được hưởng một
phần tài sản, thưa cha. Do đó tôi cũng mời cha chứng kiến lúc đọc di chúc. –
Tôi e rằng chúng ta gặp một chút rắc rối, Harry. Ông có biết không, Mary đã lập
một tờ di chúc khác. Tối hôm qua sau khi rời cuộc tiếp tân, bà đã trao lại cho
tôi một phong thư được khằn kín và buộc tôi, phải long trọng hứa với bà chỉ mở
phong thư ấy ra sau khi tôi biết chắc bà đã qua đời. Tôi đã làm theo ý nguyện của
bà và được biết phong thư ấy chứa đựng một di chúc. – Bà Marry đã lập một di
chúc khác? Không có mặt tôi. – Hình như thế. Theo tôi nghĩ bà ta đã tính việc
này từ lâu, nhưng không biết lý do nào đã thúc đẩy bà giữ kín như thế. – Cha có
mang theo di chúc đó không? – Có. Cha Ralph đưa tay vào áo rút ra bản di chúc được
xếp rất cẩn thận và trao cho Harrỵ Vị trưởng khế không cần tỏ ra chút tế nhị
nào, ông ta đọc ngay tại chỗ. Khi đọc dứt, ông ngước lên nhìn cha Ralph. Linh mục
thấy trong mắt ông ta điều mà linh mục chẳng muốn thấy chút nào: sự ngưỡng mộ,
sự giận dữ rồi sự khinh bỉ nào đó. – Thế thì xin có lời chúc mừng cha. Cuối
cùng thì cha thừa hưởng trọn tất cả. Vì không là người công giáo, ông ta tự cho
phép mình nhận xét như thế với cha Ralph. – Này ông Harry, hãy tin tôi, điều
này làm cho tôi bất ngờ không kém ông đâu. – Có phải đây là bản duy nhất? –
Theo tôi biết thì đúng thế. – Và bà đã trao cho cha lúc khuya đêm qua? – Vâng.
– Vậy thì tại sao cha không tiêu hủy nó đi để có thể bảo đảm cho Pađy được thừa
kế những gì đáng lý thuộc quyền của ông ấy? Nhà thờ không có lý do gì yêu sách
tài sản của bà Mary Carson. Linh mục Ralph nhìn thẳng ông trưởng khế không có
chút gì quỷ quyệt: – Ồ, như thế thì không đúng đắn, Harry! Quyền sử dụng tài sản
như thế nào thuộc về bà Mary Carson. – Tôi sẽ cố vấn cho Pađy đâm đơn kiện chống
lại tờ di chúc thứ hai. – Ông có lý.
Sau
câu nói đó hai người chia tay nhau. Sáng hôm sau ngay khi chưa ai đến đưa đám,
cả thị trấn Gillanbone và khắp trong vùng đã biết tin tài sản của bà Mary
Carson về tay ai. Ván bài đã lật ngửa, hết đường thối lui. Cha Ralph cho ô tô dừng
lại cách dãy phía sau nhà khá xa, ông bước xuống và đi chầm chậm. Các cửa sổ đều
có ánh sáng dội ra. Có bóng đen nào đó ở một nơi khuất sau cây đậu tía. Cha
Ralph đứng lại, giật mình rởn tóc gáy. Con nhện cái già vẫn có những cái cách
riêng của bà ta để gây bất ngờ. Nhưng không, hóa ra là Meggie trong bộ quần áo
đi ngựa với đôi giày ống cao đang sốt ruột chờ ông trở lại. – Con làm cho cha
hoảng sợ, ông nói cụt ngủn. – Con xin lỗi cha. Con không muốn làm thế. Nhưng
con cũng không muốn ở trong nhà với ba và các anh con. Mẹ con ở đàng nhà với
hai em, đáng lý giờ này con phải cầu kinh với bà Smith, Minnie và Cat, nhưng
con không muốn cầu nguyện cho bà Mary. Như thế là có tội phải không cha? Chính
vào lúc ấy cha Ralph không cho phép ông nói điều gì đó làm vui lòng linh hồn của
Mary Carson. – Cha không cho rằng đó là một tội lỗi, Meggie à. Ngược lại, chính
sự giả dối mới là có tội. Cha cũng thế, cha không muốn cầu nguyện cho bà ta. Bà
ấy… không tốt lắm. Thế thì nếu con mắc tội vì đã nói cho cha biết suy nghĩ của
con, thì cha cũng thế, nhưng riêng trong trường hợp của cha thì tội nặng hơn. Tội
bắt buộc phải yêu thương mọi người, gánh nặng ấy con không phải gánh như cha. –
Cha có khỏe không? – Khỏe, tốt lắm, ông vừa nói vừa nhìn lên tòa nhà, sau đó là
một tiếng thở dài. Cha cũng không muốn vào trong đó chút nào. Có thế thôi. Cha
không muốn ở chung dưới một mái nhà với bà ta cho tới sáng và chờ đợi cho bọn
ma quỉ, tối tăm, bị xua đuổi. Nếu ngay bây giờ cha thắng ngựa, con có chịu cùng
cha đi dạo cho tới lúc trời sáng không? Bàn tay của cô gái phớt nhẹ qua tay áo
đen rồi để rơi xuống. – Con cũng vậy, con không muốn vào trong đó. – Con chờ
cha một phút để cha cất chiếc áo chùng vào ôtô. – Con đi xuống chuồng ngựa. Lần
đầu tiên, cô muốn đối diện với cha Ralph ngay trên tư thế của ông; tư thế của
người lớn; còn cha Ralph thì cảm nhận rõ ràng sự thay đổi ở Meggie như cảm nhận
hương thơm hoa hồng ngào
ngạt
trong vười bà Mary Carson. Những hoa hồng. Tro của hoa hồng. Hoa hồng, đâu đâu
cũng hoa hồng. Những hoa hồng, về đêm chỉ còn lại hương thơm. Hương thơm của
hoa hồng. Meggie thân yêu của ta, ta đã bỏ rơi cô ta. Nhưng cô ta có hiểu
không, cô ta đã trở thành một mối đe dọa? Cho nên, ta đã dẫm nát Meggie dưới đế
giày tham vọng; Meggie không còn là gì khác hơn là một hoa hồng tan tác trên cỏ.
Hương thơm của hoa hồng, mùi ghê tởm của Mary Carson. Hoa hồng và tro của hoa hồng.
– Tro của hoa hồng, ông thì thầm một mình khi ngồi lên lưng ngựa. Chúng ta đi
thật xa, mùi thơm của hoa hồng xa cách như mặt trăng. Ngày mai, mùi thơm hoa hồng
sẽ ngập tràn cả nhà. Ông thúc gót giày vào hông ngựa, cho nó đi chầm chậm trước
Meggie trên con đường chạy dọc theo bờ suối, lòng nghẹn ngào. Cho đến khi ông
nghe mùi hương thơm ngào ngạt của những cụm hồng mà ngày mai đây sẽ phủ kín
quan tài của bà Mary Carson, ông vẫn chưa ý thức biến cố sẽ xảy ra thức thời.
Ông sẽ phải ra đi ngay. Quá nhiều suy nghĩ, quá nhiều xúc cảm, tất cả không thể
dồn nén. Tòa thánh sẽ không để ông mốc meo ở cái xó Gilly này một ngày nào sau
khi được biết nội dung tờ di chúc khó có thể tưởng tượng này. Ông sẽ bị gọi về
Sydney tức thời. Ngay tức thời! Ông trốn chạy một sự đau khổ; mà lần đầu tiên
ông nếm trải. Không phải là chuyện tình cờ nào đó trong tương lai lờ mờ; chuyện
này sẽ xảy ra tức khắc. Và ông đã mường tượng ra gương mặt của Pađy, sự ghê tởm
hiện lên ở con người tốt bụng ấy, cách né tránh để khỏi phải chạm mặt. Sau đó
không bao giờ ông được tiếp đãi nồng hậu tại Drogheda nữa và ông sẽ không bao
giờ gặp lại Meggie. Nhưng rồi tiếng vó ngựa điên cuồng đã mang lại cho cha sự tự
tin thường có. Như thế còn hơn, như thế còn hơn, như thế còn hơn. Ngựa phi rồi
ngựa lại phi. Đúng vậy, như thế sẽ ít đau khổ hơn, thà ẩn mình trong sự an toàn
của một tu phòng nào đó của tòa tổng giám mục và mỗi lúc một ít đau khổ hơn, và
càng ít đau khổ hơn cho đến khi nỗi đau trong lòng tan biến. Nên chọn như thế
còn hơn là ở lại Gillabone để nhìn thấy Meggie biến thành một con người khác, rồi
đến một hôm phải làm phép cưới cho cô ta với một người xa lạ. Hãy để Meggie ra
ngoài tầm mắt, ra ngoài suy nghĩ. … Nhưng vậy thì, ta đang làm gì cho Meggie
giữa lúc này, phi ngựa qua các lùm cây và bụi rậm, cách xa con suối? Ông không
làm sao hiểu nổi lý do, chỉ nghe trong tim mình nhói đau. Không phải cơn đau so
sự phản bội – Meggie không bao giờ làm chuyện đó mà chỉ là nỗi đau của sự chia
ly. – Cha ơi, cha ơi! Con không theo kịp cha! Đừng chạy nhanh quá, thưa cha!
Tiếng
gọi của Meggie đứa cha trở về với bổn phận – trở về với thực tế. Cũng như trong
một phim quay chậm, ông kéo ngược hàm ngựa để cho nó quay lại và ghìm lại tại
chỗ cho đến khi con vật chịu đứng im, cha đứng đó chờ nàng đuổi kịp? Tai họa là
thế đó, Meggie đuổi kịp ta không? Hai người dừng lại bên một đầm lớn nước sóng
sôi sục mùi lưu huỳnh. Cha Ralph ngồi trên một khúc gỗ ven bờ, Meggie cũng ngồi
xuống theo nhưng cách một khoảng. Cô ta ngồi nghiêng một bên cốt ý có thể quan
sát cha Ralph. – Có chuyện gì đó, thưa cha? Có cái gì đó hơi lạ, khi nghe một
câu mình thường hỏi cô ta. Cha Ralph mỉm cười. – Cha đã bán con, Meggie nhỏ bé
của cha. Bán với giá mười ba triệu bảng Anh. – Cha đã bán con? – Một cách hình
tượng. Điều đó không quan trọng lắm. Con hãy lại gần đây. Rồi đây chúng ta sẽ
không còn kịp để nói chuyện với nhau nữa. – àcha muốn nói trong suốt thời gian
chịu tang chứ gì. Con không thấy có gì khác biệt giữa chuyện có tang và không
có tang. – Cha không nói đến chuyện đó, Meggie ạ. – Hay là tại con đã lớn và người
ta có thể dèm pha chuyện của chúng ta? – Cũng không đúng như thế đâu. Chẳng qua
là cha sẽ ra đi. Lại thế đấy, thêm một cú định mệnh ngàn cân giáng vào đời cô.
Không kêu la, không khóc, không nổi trận cuồng phong phẫn nộ mà chỉ hơi giật nẩy
người, giống như cái gánh nặng ngàn cân ấy đặt lệch trên vai khiến Meggie mất
thăng bằng. Meggie nén hơi thở, không để buông một tiếng thở dài. – Khi nào thưa
cha? – Trong vài ngày. – Cha ơi. Đó là điều khổ tâm cho con hơn cả sự ra đi của
Frank. – Còn với cha thì chưa bao giờ trong đời lại khổ tâm như thế. Cha không
có một niềm an ủi nào. Nhưng con, ít ra cũng còn có gia đình. – Cha có Chúa. –
Con nói hay lắm, Meggia. Con đã thật sự trưởng thành. Nhưng Meggie thuộc hạng
phụ nữ luôn biết mình muốn gì, đeo đẳng bền bỉ một mục đích cho nên cô trở lại
một câu hỏi bỏ dở khi hai người phi ngựa trên con đường dài 5 cây số. Ralph ra
đi, thật là khó chịu đựng nổi sự vắng mặt ấy, nhưng dù sao Meggie cũng cần đặt
ra một câu hỏi.
–
Thưa cha, lúc ở chuồng ngựa, cha có nói “ tro của hoa hồng”. Có phải ý cha muốn
nói về màu áo của con? – Có một phần như thế. Nhưng có lẽ cha muốn nói theo một
nghĩa khác. – Nghĩa nào? – Thật khó để cho con hiểu, Meggie bé nhỏ của ta. Đó
là việc suy nghĩ về một ý tưởng đang chết dần, không được quyền sinh sôi và
cũng không được quyền nẩy nở. – Không có một thứ gì lại không có quyền được
sinh ra, kể cả một ý tưởng. – Nhưng con biết cha định nói gì chứ? – Có lẽ con
biết. – Không phải tất cả những gì được sinh ra đều tốt, Meggie ạ. – Không. Cái
gì đã sinh ra, thì bản chất nó đã mang cả ý muốn được tồn tại. – Con nói như một
tu sĩ dòng Tên. Con bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? – Một tháng nữa thôi con đã mười bảy
tuổi rồi, thưa cha. – Con trải qua 17 năm khá vất vả. Nhưng thế đấy, những cực
nhọc làm cho con người ta trở nên già dặn. Trong những lúc rảnh trí con thường
nghĩ gì Meggie? – Ồ, con nghĩ đến Jimes, Patsy, đến các anh khác của con, đến
cha mẹ, nghĩ đến Hal và cô Mary. Đôi khi nghĩ đến chuyện làm sao để có con, con
rất thích như thế. Và con nghĩ đến mọi thứ trên đời mà đàn ông thường vẫn đề cập.
Rồi thời tiết, mưa, vườn rau, các con gà mái đẻ trứng, và nghĩ đến ngày mai con
sẽ làm gì. – Thế con không nghĩ đến chuyện sẽ lấy chồng à? – Không, nhưng con lại
nghĩ rằng phải có một người chồng nếu con muốn có con. Thật đáng tội nghiệp đứa
con không có cha. Tuy lòng quặn đau, cha Ralph vẫn mỉm cười. Meggie là hiện
thân của một sự pha trộn kỳ lạ giữa hiểu biết non nớt và ý thức đạo đức cao cả.
Đột nhiên, ông quay lại, nâng cằm Meggie và nhìn thẳng vào mắt cô gái. Làm thế
nào đây, phải làm gì đây! – Con… Meggie chỉ lấp lửng. Và im lặng. – Con không
nói rằng con đã nghĩ đến cha phải không? Nếu con không cảm thấy điều đó là tội
lỗi thì con đã nhắc tên cha cùng một lúc với ba của con. Như vậy, tốt hơn là
cha phải đi khỏi nơi đây, con thấy đúng không? Con đã bắt đầu quá cái tuổi để
nuôi dưỡng trong đầu một ý thích ngông cuồng kiểu trẻ con mặc dù con rất già dặn
so với một cô gái chưa đầy mười bảy tuổi. Cha
vui
mừng khi thấy con biết gì về những thực tế của cuộc sống, nhưng cha lại hiểu rằng
những mối tình vẩn vơ trẻ con cũng gây ra lắm đau khổ. Cha cũng từng trải qua
như thế. Meggie định nói gì nhưng lại thôi, hai con mắt long lanh như muốn
khóc, nhìn xuống và lắc đầu. – Này Meggie, đây chỉ là một chặng đường, một cột
mốc dẫn con đến cuộc đời của một người đàn bà. Vài năm nữa con sẽ gặp người nào
đó sau này sẽ làm chồng con; con sẽ bận rộn vô cùng để tổ chức cuộc sống. Và
khi ấy nếu có nhớ đến cha thì cũng chỉ là nhớ đến như một người bạn trước đây
đã giúp mình trải qua cơn khủng hoảng của thời nhỏ. Điều con phải tránh là ước
mơ lãng mạn về cha để trở thành thói quen. Cha không có quyền đối xử với con như
một người chồng . Cha không bao giờ nhìn con trong hướng ấy. Meggie, con hiểu lời
cha chứ? Khi cha nói cha yêu con, không phải với tư cách một người đàn ông. Vì
thế mà con không được mơ mộng về cha. Cha sẽ đi và ít hy vọng có thời giờ trở về
Drogheda này, dù là một cuộc thăm viếng bình thường. Hai vai của cô gái vẫn cụp
xuống như thể cái sức nặng từ trên đè xuống quá mức chịu đựng, nhưng Meggie vẫn
ngẩng đầu lên nhìn thẳng mặt cha Ralph. – Con không mơ mộng nữa đâu, cha đừng
lo. Con biết cha là linh mục. – Con biết không, cha không hề nghĩ rằng mình đã
chọn lầm sứ mệnh. Nó đã thỏa mãn trong cha một nhu cầu mà không ai có thể làm
thỏa mãn được, kể cả con. – Con biết. Con nhận ra điều đó khi chứng kiến cha
hành lễ. Cha có quyền lực. Con tin rằng lúc ấy cha cảm nhận hoàn toàn rằng mình
hòa đồng với Đức Chúa Trời. – Ta nghe rõ từng hơi thở nín lại trong nhà thờ,
Meggie ạ. Mỗi ngày, ta chết đi và mỗi sáng ta sống lại khi làm lễ. Có phải
chăng chính vì ta là một đấng chăn chiên được Chúa lựa chọn hay vì ta cảm nhận
được từng hơi thở bị nén lại và ta đoán được uy quyền của ta đối với những linh
hồn tồn tại? – Điều ấy có gì là quan trọng đâu cha? Như thế đó và chỉ thế thôi?
– Rất có thể điều đó không quan trọng đối với con nhưng với ta thì khác. Ta
hoài nghi, hoài nghi. Nhưng rồi Meggie trở lại điều cô tha thiết nhất. – Con
không biết thiếu cha con sẽ sống ra sao. Bắt đầu là Frank, bây giờ đến cha. Với
Hal thì khác, ít ra con biết rằng Hal đã chết và sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng
cha và Frank đều còn sống! Con sẽ luôn tự hỏi hai người thân thiết nhất đời con
ra sao, đang làm gì, mọi chuyện có tốt đẹp cả không, con có giúp gì cho họ
không? Con cũng cần biết cha có còn sống không nữa chứ. – Cha cũng có những băn
khoăn ấy Meggie ạ, và cha biết rằng Frank cũng thế thôi.
–
Ồ không đâu! Frank đã quên chúng ta. Rồi cha cũng thế thôi, cha sẽ quên chúng
con. – Cha mãi mãi không bao giờ quên con, Meggie, mãi mãi cho đến khi cha còn
sống trên cõi đời này. Và đó sẽ là một hình phạt cho cha khi được sống lâu, thật
lâu. Đã đến lúc chúng ta từ biệt nhau, Meggie. Chúng ta sẽ không còn có dịp gặp
riêng như thế này nữa. – Nếu cha không phải là linh mục, cha có lấy con làm vợ
không? Nghe nhắc nhở lại tâm trạng cũ, cha Ralph xao xuyến lạ lùng: – Đừng có
lúc nào cũng gọi ta luôn miệng là cha! Meggie có thể gọi ta là Ralph. Lời nhắc
nhở ấy của cha Ralph không là câu trả lời mà Meggie chờ đợi. Mặc dù áp sát người
vào Meggie, ông vẫn không có ý định ôm hôn. Meggie ngước lên nhìn ông đang chìm
dần trong bóng đêm dày đặc; trăng đã khuất từ bao giờ. Ralph cảm giác hai đầu
nhọn nhỏ nhắn trên ngực Meggie chạm nhẹ vào người ông; một thứ cảm giác kỳ lạ,
bối rối. Càng bối rối hơn nữa là Meggie đã áp sát người vào Ralph một cách
buông thả của người vợ hằng đêm âu yếm chồng. Rất tự nhiên, hai tay Meggie bấm
vào cổ Ralph và ôm Ralph siết mạnh. Chưa bao giờ cha Ralph đặt lên môi phụ nữ một
cái hôn yêu đương nào, ngay cả lúc này đây cũng không muốn như thế. Một chạm nhẹ
dịu dàng trên má, một cái siết vội vã giống như những điều mà Meggie thường chờ
đợi ở cha ruột mình trước khi ông đi xa. Meggie vừa nhạy cảm lại vừa kiêu hãnh.
Cha Ralph vô tình xúc phạm đến cô khi đón nhận một cách lạnh lùng những ước mơ
sâu kín nhất mà cô hằng ôm ấp. Đúng thế, cũng như cha Ralph, Meggie mong chấm dứt
ngay cái giây phút từ biệt này. Liệu rằng mình có được chút an ủi nào không khi
biết được cha Ralph còn chịu nhiều đau khổ hơn trong phút giây này? Khi ông
nghiêng đầu xuống hôn lên má Meggie, cô đã nhón chân lên và phải chăng là do
tình cờ, môi của Meggie chạm qua môi của Ralph. Đầu cha bật ngược ra sau như vừa
nếm phải nọc độc của con nhện; nhưng rồi nhớ sực lại rằng mình sẽ mất Meggie
vĩnh viễn, cha Ralph lại cúi đầu sát Meggie, định nói điều gì đó với đôi môi dễ
thương và mím chặt ấy. Còn Meggie cố gắng để trả lời, đôi môi hé mở. Cái cơ thể
trẻ trung ấy bỗng nhiên như mất đi tất cả những xương thịt, biến thành một thứ
chất lỏng, một phần của những bóng đêm ấm áp và tan biến vào đó. Một tay Ralph
choàng qua thân người Meggie, bàn tay còn lại, Ralph vuốt ve mái tóc và gáy, giữ
cho gương mặt cô ngước nhìn lên, như sợ rằng Meggie có thể thoát đi mất vào
ngay giây phút ngắn ngủi này trước khi ông kịp khắc ghi vào tâm khảm sự hiện diện
kỳ ảo của Meggie.
Meggie
đó nhưng không phải là Meggie, quá xa lạ để mà quen thuộc vì rằng Meggie của
cha Ralph chưa là phụ nữ, chưa mang đến cái cảm giác của người phụ nữ và không
bao giờ là một phụ nữ đối với ông. Cũng như không thể nào ông là đàn ông đối với
cô. ànghĩ đã chiến thắng những giác quan đang bối rối. Cha Ralph gỡ hai tay
đang choàng cổ ông, đẩy nhẹ Meggie ra và tìm cách nhìn vào đôi mắt của cô trong
bóng đêm. Nhưng Meggie cúi mặt xuống, từ chối nhìn cha Ralph. – Đã đến lúc
chúng mình phải rời khỏi đây. Không một lời, Meggie bước đến gần con ngựa, leo
lên lưng ngồi chờ; thường khi thì cha Ralph ngồi sẵn để chờ Meggie. Đúng như
cha tiên đoán, tòa nhà ở Drogheda ngập tràn hoa hồng. Các vườn hồng chung quanh
đều tập trung hoa về đây. Cha Ralph đã làm lễ Misa với những lời lẽ mà người
này thì cho rằng ông đã mỉa mai, người khác thì cho rằng giọng nói ấy chứa đựng
đau xót chân thành. Sau đó chiếc quan tài được đặt lên chiếc xe đẩy thấp. Không
ai chịu đưa vai vào khiêng thi hài của bà Mary Carson. Và cũng không có ai tiếc
thương khi nhìn thấy hai cánh cửa hầm mộ khép kín lại. Thế là mọi người có thể
hít thở tự nhiên. Trong khi khách khứa tập trung ở gian phòng lớn để ăn lót dạ
hay trò chuyện, ông chưởng khế Harry Gough mời Pađy và gia đình, cha Ralph, bà
Smith và hai chị giúp việc đến phòng khách. Vốn người nhân từ tốt bụng, Pađy đã
khóc chị, còn bà Fiona, vợ Pađy, thì nét mặt vẫn không thay đổi, như thể kkhông
chú ý đến chuyện gì đã xảy ra. – Pađy, tôi đề nghị ông phản đối tờ di chúc –
Harry Gough tuyên bố sau khi đọc trọn văn bản bằng một giọng khô khan và bất
mãn. – Đúng là một con mụ già thối tha và quỷ quái! Bà Smith buột miệng kêu
lên. Mặc dù bà thương cha Ralph nhưng tình cảm của bà Smith vẫn nghiêng về phía
gia đình họ Cleary. Dòng họ này đã mang đến cho đời bà niềm vui rộn rã. Pađy lắc
đầu. – Không, ông Harry! Tôi không làm gì cả. Tài sản này là của chị tôi và chị
tôi có toàn quyền quyết định theo ý bà. Nếu chị tôi muốn để lại tất cả cho Nhà
thờ thì chúng tôi phải cúi đầu trước ý muốn của bà. Tôi không thể nói dối rằng
tôi hoàn toàn không hề thất vọng nhưng tôi chỉ là một người chất phác, cho nên
như vậy lại tốt hơn. Tôi thành thật nói rằng tôi không ham nhận trách nhiệm nặng
nề cai quản một điền trang rộng bao la như Drogheda.
–
Ông không hiểu gì hết Pađy ạ – Harry Gough nói lại bằng cách nhấn mạnh từng lời
một như nói với trẻ con – Không phải chỉ có Drogheda, điền trang chỉ là một phần
rất nhỏ trong số tài sản mà chị của ông đã để lại. Bà ấy là cổ đông có quyền kiểm
soát cả trăm công ty loại lớn; bà còn có những nhà máy đúc thép, những mỏ vàng,
hãng Michar Limited mà trụ sở là một tòa nhà chín tầng ở Sydney. Bà chị ông là
người giàu có nhất ở Úc! Thật kỳ lạ, chính bà đã nhờ tôi liên hệ với các giám đốc
Michar Limited ở Sydney chỉ mới cách đây không đầy một tháng với mục đích xem lại
tiền bạc của bà hiện có là bao nhiêu. Vào lúc bà qua đời, tài sản của bà lên tới
mười ba triệu bảng Anh. – Mười ba triệu bảng! Pađy lặp lại con số với giọng xa
xôi như khi người ta nhắc tới cái khoảng cách từ mặt đất tới mặt trời, một sự
đánh giá không tài nào hình dung nổi. Thế đấy, coi như vấn đề đã giải quyết,
Harry. Tôi dứt khoát không muốn đảm trách những công việc quá to lớn ấy. –
Không có công việc to lớn nào phải đảm trách, Pađy! Ông không hiểu à? Với những
tài sản như thế sẽ tự quản lý lấy! Ông hoàn toàn khỏi phải quan tâm tới, có
hàng trăm nhân viên để lo việc này. Pađy, ông hãy kiện lại tờ di chúc này, tôi
tha thiết đề nghị với ông như vậy. Tôi sẽ giới thiệu với ông những luật sư giỏi
nhất nước và tôi sẽ hỗ trợ đến cùng, dù phải đến đến tận Hội đồng cơ mật. Pađy
bỗng nhớ lại rằng gia đình ông cũng có quyền phát biểu trong việc này, ông quay
sang Bob và Jack, đang há hốc miệng, ngồi cạnh nhau trên một chiếc ghế dài cẩm
thạch Ý. – Này các con, các con nghĩ thế nào? Các con có muốn tìm cách túm lấy
cái món béo bở… mười ba triệu bảng của cô Mary không? Nếu các con muốn, ba sẽ
kiện phản đối di chúc này, còn không thì ba sẽ rút lui. – Nhưng dù thế nào thì
chúng ta vẫn được quyền tiếp tục sống ở Drogheda, trong di chúc cũng có nói rõ
điều đó phải không ba? – Bob hỏi. – Không ai có quyền đuổi các cậu ra khỏi
Drogheda cho đến khi nào ba các cậu còn một người con người cháu ở đây, Harry
giải thích. – Chúng ta sẽ ở đây, trong ngôi nhà lớn với bà Smith và Minnie,
Cat. Những người này phục vụ chúng ta và chúng ta lại nhận một số tiền lương
cao – Pađy thêm vào, quá sung sướng và hài lòng về sự may mắn của mình và quên
đi nỗi bất hạnh. – Vậy thì còn đòi hỏi gì hơn nữa? Bob hỏi em mình. Em có đồng
ý không? – Với em, như thế là vừa. Jack trả lời ngắn gọn.
Cha
Ralph lòng dạ bồn chồn. Không kịp thay bộ đồ làm lễ, ông cũng không kịp ngồi;
không khác một pháp sư đẹp và hắc ám; ông đứng trong bóng tối ở cuối phòng, hai
tay đút vào áo choàng màu đen; nét mặt sững sờ. Trong tận đáy sâu của tôi mắt
xanh xa xôi, đang dồn sự phiền muộn và nỗi kinh hoàng. Sự trừng phạt mà ông chờ
đợi một cách giận dữ và khinh bỉ, cuối cùng đã không xảy ra. Pađy đã đặt tất cả
trên một mâm bạc, đầy thiện chí, dâng tặng ông lời cảm ơn ông đã lo giùm gánh nặng
cho dòng họ Cleary. – Còn bà Fiona và Meggie thì sao? Linh mục xen vào, lời nói
khô khan hướng về phía Pađỵ Phải chăng ông không coi trọng lắm phụ nữ trong gia
đình nên không hỏi ý kiến của những người ấy? – Vậy Fiona, em có ý kiến gì?
Pađy lo lắng hỏi. – Em tuân theo ý kiến của anh, Pađy. Phần em thì sao cũng được.
– Con không cần 13 triệu bảng của bà ta, Meggie trả lời, mắt nhìn chăm chăm cha
Ralph. – Như thế, coi như kết thúc vụ này, Harry – Pađy quay lại nói với viên
chưởng khế – Chúng tôi không muốn kiện chống lại tờ di chúc. Tòa thánh cứ thừa
hưởng tiền của bà Marry, như thế là rất tốt. Harry đập hai tay vào nhau. – Trời
đất ơi, tôi đau tận ruột gan khi nhìn thấy ông bị trấn lột. – Tôi cảm ơn ngôi
sao bổn mạng của tôi, Pađy nhỏ nhẹ nói. Nếu không có chị Mary của tôi, thì bây
giờ tôi còn phải làm thuê làm mướn cho người này, người nọ để sống ở Tân Tây
Lan. Trước khi rời phòng khách, Pađy gặp cha Ralph, bắt tay linh mục trước bao
nhiêu người chăm chú theo dõi từ nãy giờ. – Thưa cha, xin cha đừng nghĩ rằng
chúng tôi có ý nghĩ bất bình gì đối với cha. Suốt cả chiều dài của cuộc đời bà,
Mary không hề để cho một ai ảnh hưởng mình, dù người đó là linh mục, em hay chồng.
Cha hãy tin tôi và cha cũng rất tốt đối với chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ
quên. Mặc cảm tội lỗi. Gánh nặng. Suýt chút nữa cha Ralph quên nằm bàn tay sần
sùi mà Pađy đã chìa ra nhưng bộ óc của cha đã kịp giành lại phần thắng; cha
Ralph bắt tay và siết thật mạnh, mỉm cười khó nhọc. – Cám ơn Pađy. Hãy tin chắc
rằng tôi sẽ theo dõi sát không để cho gia đình ông thiếu hụt bất cứ thứ gì. Cha
Ralph đi ngay trong tuần lễ ấy và không hề trở lại thăm Drogheda. Ông dành vài
ngày để sắp xếp một vài thứ lặt vặt và đi thăm các gia đình công giáo trong
vùng, ngoại trừ Drogheda.
Linh
mục Watkin Thomas từ xứ Wales tới, thay thế đảm trách giáo xứ Gillanbone, còn
cha Ralph de Bricassart trở thành thư ký riêng của tổng giám mục Gluny Dark. Nhưng
công việc của cha rất ít; cha có hai người trợ lý. Cha được giao nhiệm vụ xem lại
sản nghiệp của bà Mary Carson gồm những gì và giá trị thật sự bao nhiêu vì lợi
ích của Tòa thánh.
CHƯƠNG
14
Năm
mới đã đến, cùng lúc với đêm khiêu vũ Saint Sylvestre do gia đình Angus Mac
Queen tổ chức hàng năm ở Rudna Hinish, trong khi đó thì gia đình Cleary vẫn chưa
chuyển qua ở tòa nhà lớn vì việc sắp xếp theo ý của Fiona còn kéo dài. Cha
Ralph có gởi cho Pađy một ngân phiếu năm ngàn bảng từ đầu tháng 12, để chi dùng
ban đầu theo cách giải thích trong thư của ông. Pađy đưa thư cho Fiona xem với
thái độ kinh ngạc. – Trời ơi, làm việc suốt đời, tôi cũng không làm sao đào ra
được một số tiền như thế này? – Với số tiền này mình làm gì? Fiona hỏi sau khi
liếc qua vào tấm ngân phiếu rồi đôi mắt long lanh nhìn chồng. Thế là chúng ta
đã có tiền? Anh có thấy không? Ồ, em không cần số tiền 13 triệu bảng của cô
Mary… một số tiền như thế không thật. Nhưng còn tiền này, thì thật đó. Chúng
ta sẽ làm gì bây giờ? – Chi xài, Pađy trả lời đơn giản. Mua quần áo mới cho con
cái… Còn em? Có lẽ em thích mua sắm đồ đạc cho ngôi nhà lớn phải không? Về phần
anh thì chẳng thấy cần thứ gì cả. – Ngốc thật. Chính em cũng không biết chi xài
chuyện gì (bà đứng lên, rời bàn ăn và gọi Meggie với một giọng quyền uy). Con đến
đây! Chúng ta qua nhà lớn xem ở đó cần gì. Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày sóng
gió tiếp theo cái chết của Mary Carson, thế mà chưa có một thành viên nào của
gia đình Cleary đặt chân đến tòa nhà lớn. Nhưng bây giờ cuộc viếng thăm của
Fiona đã bù lại thời gian họ gớm ghiếc xa lánh ngôi nhà này. Bà đi từ phòng này
sang phòng khác, phía sau có cả một đoàn tùy tùng gồm Meggie, và Smith, Cat và
Minnie. Bà làm cho con gái bà ngạc nhiên về sự sống động mà từ lâu không thấy ở
bà. Bà luôn luôn nói một mình, khi thì chê thứ này đáng tởm, khi thì chê thứ
kia quá xấu xí, phải chăng chị Mary bị bệnh mà mất hay chị ấy chẳng có chút óc
thẩm mỹ nào cả! Bàn viết của Mary Carson, theo kiểu xấu xí thời Victoria, bên
trên có đặt máy điện thoại. Fiona đến gần, nhìn màu gỗ buồn hiu với vẻ chê bai.
– Bàn viết của tôi đặt vào đây thì hợp quá, bà nói. Tôi bắt đầu sửa sang, sắp xếp
lại từ căn phòng này. Chúng ta chỉ dọn nhà sang khi mọi việc xong xuôi. Chưa
xong thì không dọn. Như thế chúng ta bố trí được một nơi có thể họp mặt nhau mà
không thấy buồn tẻ – vừa nói bà vừa ngồi xuống coi lại chiếc điện thoại.
Sau
khi sửa điện thoại xong, Fiona ra lệnh cho ba người phụ nữ tháo gỡ ngay các bức
màn nhung màu nâu và ném tất cả và một chỗ dành riêng cho các thứ không còn
dùng nữa. Và Fiona đốt cùng với rác rến. – Chúng ta không cần những thứ này, bà
khẳng định. Và tôi cũng không muốn cho người nghèo ở Gillanbone dùng những thứ
này. – Đúng thế, mẹ, Meggie tán đồng nhưng hơi sửng sốt. – Chúng ta không rèm
màn, Fiona nói, không băn khoăn chút nào khi làm trái lại các qui tắc trang
hoàng trong nhà của thời đại này. Hành lang rất rộng, khó cho ánh nắng chiếu thẳng
vào bên trong nhà, vậy thì rèm màn có ích gì? Mẹ muốn để trống cho mọi người
nhìn thấy được phòng khách. Vào tuần lễ thứ hai của tháng giêng, tất cả đã hoàn
chỉnh, tiếng đồn lan rộng ra qua liên lạc của các máy điện thoại địa phương. Bà
Cleary Fiona đã biến phòng khách của Drogheda thành một cung điện. Không ai
nghi ngờ sự thành công của Fionạ Ba ngày trước khi dọn sang nhà lớn khi mặt trời
chưa lên, mấy con gà trống đã chào đón một ngày mới bằng những tiếng gáy rộn rã
vui tươi. – Đồ tốt mã nhưng chẳng làm ăn ra gì, Fiona cáu gắt. Mẹ không biết
chúng nó tự hào về cái gì. Không có lấy một trứng cho buổi ăn sáng, trong khi
bao nhiêu đàn ông đang tập trung ở nhà để chờ dọn đồ. Meggie, con phải ra chuồng
gà xem thử, mẹ đang quá bận rộn. Mẹ tự hỏi ba mua dài hạn tất cả các loại báo
này làm gì; không ai có thời giờ để đọc. Nó cao lên nhanh quá mẹ không đốt kịp.
Con xem, tờ này xuất bản vào cái ngày chúng ta mới đến đây! Nhưng ít ra những tờ
báo ấy cũng có công dụng gói bọc chén dĩa. Thật là dễ chịu khi thấy mẹ vui vẻ,
Meggie nghĩ thầm, nhanh nhẹn bước xuống các bật thang. Chuồng gà rộng thênh
thang, có bốn gà trống và hơn bốn chục gà mái. Khi Meggie đẩy cửa bước vào
trong, mấy con gà mái nhao nhao lên, tưởng rằng Meggie đến cho ăn. – Thật tình
chúng bay chẳng ra làm sao cả. Giọng của Meggie nghiêm nghị trong khi duyệt qua
các máng dùng để hứng trứng! Không đủ cho ăn buổi sáng chứ đừng nói tới chuyện
làm bánh! Thế này nhé, tôi cần báo trước cho các cô cậu biết để khỏi than van,
nếu các cô cậu không nhanh chóng vào nề nếp, các cô cậu sẽ kết thúc tất cả
trong… nồi. Tất cả không trừ một đứa nào. Lời cảnh cáo này có giá trị cho các
mày râu cũng như cho các bậc phu nhân. Này các ngài, đừng có xòe đuôi ưỡn ngực
như thể chuyện này không dính dấp đến các ngài!
Trứng
gà được đặt kỹ lưỡng trong tạp dề, Meggie trở lại bếp vừa đi vừa hát nho nhỏ. Bước
vào nhà Meggie bắt gặp mẹ đang ngồi trên chiếc ghế bành của cha, mắt nhìn chăm
chú vào tờ tuần báo Smith” s Weekly, mặt tái xanh, môi run run. Meggie nghe tiếng
nói các anh cùng cha mình bên kia vách và tiếng cười của Jims và Patsy vừa được
6 tuổi. Hai đứa em không được thức dậy trước khi người lớn đi làm. – Có chuyện
gì thế, thưa mẹ? – Meggie hỏi. Fiona không trả lời; và vẫn bất động, những giọt
mồ hôi đọng lại trên môi dưới, đôi mắt sững sờ trong đau đớn như thể bà đang
gom hết sức lực mình để ngăn lại tiếng thét phát ra từ trong lòng. – Ba ơi! Ba
ơi! Meggie gọi to, giọng hốt hoảng. Tiếng gọi khiếp đảm của Meggie kéo Pađy khỏi
phòng, giữa lúc ông vừa mặc chiếc áo gilê. Bob, Jack, Hughie và Stuart chạy
theo cha. Không nói lời nào, Megie chỉ mẹ. Xúc động đến tắc nghẽn cổ họng vì âu
lo, Pađy cúi xuống sát vợ mình, nắm lấy cổ tay mềm nhũn. – Có chuyện gì thế, em
thương yêu? ông hỏi. Giọng nói thật dịu dàng của Pađy gần như hoàn toàn xa lạ đối
với các con ông, đó là giọng nói mà chúng biết cha mẹ chúng vẫn dùng đến khi
không có mặt con cái. Hình như giọng nói đặc biệt ấy, đã kéo Fiona ra khỏi vực
thẳm mà bà đang chới với; đôi mắt to, màu nâu nhìn lên gương mặt hiền hậu của
chồng đầy âu lo, và mỏi mệt. – Đấy, bà vừa nói vừa chỉ tờ báo nằm ở phía cuối
trang. Stuart đến sau lưng mẹ, dịu dàng đặt bàn tay lên vai; trước khi đọc bài
báo, Pađy nhìn vào mặt con trai ông rồi vợ ông; và ra vẻ bằng lòng. Ông không
có thái độ ghen tức như đối với Frank trước đây. Tình yêu mà cả hai dành cho
Fiona đã làm hai cha con gần gũi nhau hơn. Pađy đọc bài báo to lên, giọng chầm
chậm càng lúc càng đượm buồn. Tựa bài báo: “Một võ sĩ bị kết án chung
thân. Francis Amstrong Cleary, 26 tuổi, võ sĩ nhà nghề, hôm nay đã bị tòa án ở
Goulburn kết tội cố sát Ronald Cummings, thợ trồng trọt 32 tuổi, vụ án xảy ra hồi
tháng bảy vừa qua. Bồi thẩm đoàn đã đưa ra kết quả chỉ sau mười phút hợp riêng,
đề nghị áp dụng hình phạt nặng nhất. Theo lời phán xử của quan tòa Fitz Hugh
Cunneally thì đây là một trường hợp hiển nhiên và không còn nghi ngờ. Cummings
và Cleary gây gổ với nhau dữ dội trong quán rượu của khách sạn Harbor ngày 23
tháng 7. Cũng vào chiều hôm đó, trung sĩ Tom Bearsmore, cảnh sát ở Goulburn, có
hai nhân viên đi theo, đã đến đấy, theo yêu cầu của chủ nhân khách sạn này, ông
James Ogilvie. Trong
một
ngõ hẻm bẩn thỉu sau khách sạn, các viên cảnh sát đã bắt gặp Cleary đang đá túi
bụi vào đầu Cummings, anh này đang nằm dài dưới đất, bất tỉnh. Hai nắm tay của
Cleary đầy máu, có cả những chùm tóc rút ra từ trên đầu của Cummings. Trong lúc
bị bắt, Cleary say mèm nhưng vẫn còn sáng suốt. Lúc đầu hắn chỉ bị truy tố tội
đánh người và gây thương tích nhưng sau đó hắn phải trả lời về tội cố sát vì
Cummings bị chấn thương sọ não đã chết ở bệnh viện Goulburn ngày hôm sau. Luật
sư Arthur Whyte, biện hộ cho bị can, cho rằng thân chủ của mình vô tội bằng
cách lập luận hắn bị bênh tâm thần, nhưng bốn giám định khoa tâm thần, được chỉ
định tuyên bố một cách dứt khoát, chiếu theo luật M” Naghten, Cleary không thể
coi như không có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Khi ngỏ lời với các vị bồi
thẩm, quan tòa Fitz Cunneally tuyên bố vấn đề không phải là xác định bị can có
tội hay vô tội vì rằng sự phán xét không thể khác hơn là có tội, nhưng ông yêu
cầu các bồi thẩm suy nghĩ trước khi kết luận nên khoan hồng hay nên nghiêm khắc
vì rằng tất cả tùy thuộc ở ý kiến của các vị. Khi kết án Cleary, quan tòa Fitz
Cunneally gọi hành động của bị can là dã man mất tính người nhưng lại cho rằng
hành động ấy không có dự tính trước và đã phạm trong tình trạng say rượu nên
tránh được án tử hình. ông cho rằng hai quả đấm của Cleary cũng là những vũ khí
nguy hiểm không khác súng hay dao. Cleary bị kết án chung thân khổ sai, chịu
hành phạt tại nhà tù Goulburn – nơi đây được xây để giam giữ những loại tù bản
chất đặc biệt hung dữ. Khi tòa hỏi bị can có điều gì muốn nói không, Cleary
đáp: “ Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì sự việc này.” Pađy nhìn lên
đầu trang để xem ngày tháng tờ báo: ngày 6 tháng 12 năm 1925. – Tờ báo này đã
ba năm mới đến đây, ông thì thầm, người rụng rời. Không ai đáp lại một lời hay
có bất cứ cử chỉ nào bởi vì không biết phải làm gì; phía trước nhà vọng vào tiếng
cười hồn nhiên của cặp song sinh, càng lúc ồn ào vì cả hai nói chuyện với nhau
rộn rã. – Tôi… chỉ yêu cầu… đừng cho mẹ tôi hay biết gì Fiona thều thào giọng
uể oải. Và người ta đã tôn trọng một cách triệt để ý nguyện của nó! Trời ơi!
Frank rất đáng thương của tôi! Pađy lau nước mắt bằng tay áo, rồi ngồi xổm bên
cạnh vợ, vuốt nhẹ đầu gối của bà – Fiona thương yêu của anh, hãy sửa soạn quần
áo. Chúng ta sẽ đi thăm Frank. Bà định đứng lên nhưng nửa chừng bật ngửa ra sau
lưng ghế. Trên gương mặt nhợt nhạt đầy mỏi mệt, hai mắt lấp lánh và nhìn thẳng
như người đã chết, hai mí mắt sưng húp, con ngươi vàng bệch.
–
Em không thể đến đó! Bà nói. Trong giọng nói của bà không có vẻ gì thất vọng nhưng
ai cũng đều cảm thấy nỗi lo âu đang giày xéo bà. – Nếu nó gặp lại em, nó sẽ chết
ngay – sau một lúc im lặng, bà lại nói. Pađy ơi! Nó sẽ chết ngay nếu gặp em. Em
quá biết lòng kiêu hãnh, tham vọng và sự quyết tâm của nó muốn trở thành một người
có tên tuổi trong xã hội. Cứ để cho nó chịu đựng một mình nỗi đau khổ vì đó là
ý muốn của nó. Anh có đọc thấy những lời của nó chưa: Tôi chỉ yêu cầu đừng cho
mẹ tôi hay biết gì hết. Chúng ta cần gíup nó để giữ trọn vẹn bí mật của nó. Có
gì tốt lành đâu cho cuộc gặp mặt như thế về phía nó và cả phía chúng ta. Pađy
tiếp tục khóc, không phải vì Frank; mà vì rằng cái chất sống đã biến đi trên gương
mặt của Fiona, và trong đôi mắt không còn sinh khí của bà. Thằng con trai ấy như
một con chim đáng thương; suốt đời gặp tai họa, những tai họa đã làm Fiona
không thể cởi mở được với chồng. Mỗi khi bóng dáng hạnh phúc ló dạng thì Frank
xuất hiện, gieo sự đau khổ cho Pađy. Nhưng tình yêu mà Pađy dành cho Fiona sâu
đậm và không gì lay chuyển được, không khác tình yêu mà Fiona dành cho Frank.
Ông không thể phiền trách gì ở chàng thanh niên, từ chuyện xảy ra vào cái đêm tại
nhà xứ. Ông nói: – Thôi vậy. Nếu em thấy rằng tốt hơn là đừng gặp Frank thì
chúng ta không đi. Tuy nhiên anh rất muốn biết con ra sao và nhất là chúng ta
có giúp ích được gì cho nó không. Theo em, anh có nên viết thư cho cha Ralph để
nhờ cha chăm sóc Frank? Đôi mắt còn đờ đẫn nhưng trên gương mặt Fiona thoáng có
một chút màu hồng. – Đúng thế Pađy ạ, anh viết thư đi. Nhưng anh nhớ nói với
cha thế nào để cha không cho Frank hay là chúng ta đã biết sự việc. Frank sẽ dễ
chịu hơn nếu nó tin chắc rằng cả nhà không ai hay biết gì. Vài ngày sau, Fiona
tìm lại được gần trọn vẹn phong độ và chú ý lại trong việc trang hoàng ngôi
nhà. Nhưng sự im lặng lại xâm chiếm, bà tiếp tục lạnh lùng tuy có bớt đi nét khắc
khổ. Cuộc sống trong ngôi nhà lớn thay đổi rất nhiều. Đầu tiên ai cũng thấy hơi
khác thường khi mỗi người ở một phòng riêng, còn phụ nữ – Fiona và Meggie – thì
từ nay không còn lo công việc nội trợ. Trong cũng như ngoài, đã có Minnie, Cat
và bà Smith lo tất cả, từ việc giặt ủi quần áo cho đến bếp núc, lau dọn; những
người này kinh hoảng lên khi thấy có người tỏ ý định tiếp tay họ. Pađy đã có
tin tức của cha Ralph.
Thu
nhập của bà Mary hằng năm lên đến khoảng bốn triệu bảng Anh, nhờ vào Michar
Limited là một công ty tư nhân mà đa số các dự án đầu tư đều nhắm vào thép,
trang bị tàu bè và các mỏ. Cha Ralph viết: Số tiền mà tôi gởi đến ông chỉ là một
giọt nước biển và không đến mười phần trăm thu thập hằng năm của riêng
Drogheda. Ông đừng lo về những năm khó khăn. Các tài khoản của Drogheda rất là
lạc quan, tôi có thể trả lương cho ông suốt đời chỉ cần dựa vào thu nhập của điền
trang. Do đó tiền mà ông nhận là của ông và không thâm và một đồng nào của
Michar Limited. Tiền ấy từ nguồn của điền trang chớ không phải của công ty. Tôi
chỉ yêu cầu giữ sao cho sổ sách luôn kịp thời và chặt chẽ dự phòng có một cuộc
kiểm tra tới đây. Chỉ sau khi nhận lá thư trên, Pađy tập hợp cả gia đình vào một
buổi tối tại phòng khách lộng lẫy. Ông chủ trì, trên mũi ông có cặp kiếng gọng
thép, ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn màu kem, hai chân êm ái đặt trên một ghế
dài cùng màu, còn cái ống vố đặt trên gạt tàn thủy tinh Waterford. – Thật là dễ
chịu làm sao, ông nói với nụ cười cùng lúc đảo mắt nhìn chung quanh. Ba nghĩ
chúng ta nên biểu quyết hoan hô sự thành công của mẹ. Các con nghĩ sao? Đề nghị
của Pađy được hưởng ứng bằng những tiếng thì thầm đồng tình của các con trai;
Fiona nghiêng đầu sang bên, trở mình trên chiếc ghế bành trước kia của Mary
Carson, bây giờ được bọc lại vải lụa lóng lánh màu kem. Còn Meggie thì thích nằm
thu mình như con mèo trên cái ghế dài. – Cha Ralph đã làm rõ tất cả, và tỏ ra rất
rộng rãi, Pađy tiếp tục nói. Ông ta đã gởi vào ngân hàng bảy ngàn bảng đứng tên
ba và mở các sổ tiết kiệm hai ngàn bảng cho mỗi đứa trong các con. Với tư cách
giám đốc điền trang, ba lãnh bốn ngàn bảng mỗi năm, Bob lãnh ba ngàn bảng với
chức vụ phó giám đốc. Tất cả các con trai của ba đến tuổi lao động, Jack,
Hughie, Stuart đều lãnh hai ngàn mỗi năm, riêng Jims và Patsy được một ngàn cho
đến khi nào hai đứa đủ tuổi đi làm. Sau này, điền trang sẽ bảo đảm cho Jims và
Patsy mỗi đứa một thu nhập ngang bằng với các thành viên Cleary khác làm việc tại
Drogheda, dù cho hai đứa có chọn một nghề nào khác đi nữa. Khi Jims và Patsy được
12 tuổi, cả hai sẽ được gởi học nội trú tại trung học Riverview ở Sydney, mọi
chi phí do điền trang chịu. “Mẹ nhận hai ngàn bảng hàng năm để chi dụng riêng,
Meggie cũng thế. Tiền dùng để bảo quản tòa nhà là năm ngàn bảng, mặc dầu chính
ba phải tự hỏi tại sao cha Ralph tưởng tượng ra một khoản tiền nhiều thế cho
công việc này”.
“Quyết
định đầu tiên của ba trong nhiệm vụ mới giám đốc là thuê thêm ít nhất sáu người
chăn nuôi để việc quản lý Drogheda có nề nếp hơn; cơ ngơi của Drogheda quá rộng,
không thể cáng đáng với một nhúm người?”. Đây là chi tính gián tiếp duy nhất của
Pađy liên quan đến vấn đề quản lý của chị ông. Fiona và Meggie tập lái chiếc xe
hơi mới hiệu Rolls Royce đã được giao trước một tuần lễ Mary Carson qua đời.
Meggie tập điều khiển các con chó trong khi Fiona lo sổ sách. Đúng ra Meggie rất
hạnh phúc nếu không phải chịu đựng sự vắng mặt dai dẳng của cha Ralph. Cuộc sống
này phù hợp với mong ước từ lâu của cô: có mặt ở những khu đất rào nuôi cừu, cỡi
ngựa, làm công việc của người chăn nuôi. Tuy nhiên sự thiếu vắng cha Ralph vẫn
gây go cho Meggie một nỗi đau buồn âm ỉ, kỷ niệm của cái hôn được lồng vào những
giấc mơ âu yếm mà đã sống trở lại trong tưởng tượng của Meggie cả nghìn lần. Nhưng
ký ức không thể thay thế thực tế, Meggie có cố gắng thế nào, cảm giác thật sự
cũng không tìm lại được mà chỉ còn là cái bóng mờ, như một áng mây nhẹ và buồn.
Khi cha Ralph viết thư báo cho gia đình biết tin về Frank, cũng là lúc ông đã cắt
đứt hy vọng cuối cùng mà Meggie nuôi dưỡng lâu nay là cha Ralph sẽ mượn cớ chuyện
này để đích thân đến Drogheda. Sự tường thuật của ông về cuộc hành trình đến
nhà tù Goulburn để thăm Frank được ghi lại tỉ mỉ nhưng không để lộ sự đau xót
đã gợi ra, không gây nghi ngờ về tình trạng tâm thần ngày càng sa sút của
Frank. Ông tìm cách, nhưng không thành công, chuyển Frank qua bệnh viện thần
kinh Morisset nơi người ta giam những tội nhân giết người mắc bệnh tâm thần.
Ông chỉ phác họa chân dung lý tưởng của một Frank chịu đựng, ngoan ngoãn chấp
nhận trả giá các lỗi lầm của mình với xã hội và ở một đoạn được gạch đậm dưới
hàng chữ, ông cam đoan là Frank không chút nghi ngờ khi được ông cho biết là
gia đình hoàn toàn không hay chuyện của Frank. Ông bảo rằng tình cờ mà ông biết
được tên Frank nhờ đọc một bài báo ở Sydney. Sau đó thì Frank dịu lại – cha
Ralph viết – và các sự kiện tạm dừng ở đó. Pađy có ý định bán con ngựa hồng của
cha Ralph trước kia. Nhưng Meggie không đồng ý. – Ba ơi, con van xin ba – đừng
bán. Con có thể cỡi con ngựa hồng mà! Ba hãy tưởng tượng xem mình sẽ ăn nói ra
sao, nếu sau bao nhiêu việc cư xử tốt của cha Ralph, một hôm cha trở về thăm
nơi đây và biết được chúng ta đã bán con ngựa của cha rồi. Pađy nhìn con gái
chăm chăm, có vẻ suy nghĩ: – Meggie, ba không tin là cha Ralph sẽ trở về đây. –
Cha Ralph có thể về đây chứ! Làm sao biết trước được.
Đôi
mắt của Meggie sao mà giống mẹ thế, Pađy không nỡ nói gì thêm; ông không muốn
gây thêm đau khổ cho đứa con gái đáng thương của mình. – Thôi thì ba đồng ý vậy,
Meggie, chúng ta sẽ giữ lại con ngựa hồng. Nhưng con nhớ cỡi nó thường như con
kia, ba không thích ở Drogheda có ngựa phát phì, con nghe ba chứ? Cho tới nay,
Meggie chẳng muốn cỡi con ngựa cái của cha Ralph nhưng từ nay Meggie sẽ cỡi
luân phiên hai con để cả hai đều lãnh phần thức ăn của nó xứng đáng. Mùa đông
khô và các trận mưa mùa hè không đến. Cỏ mọc cao lên tới đầu gối, um tùm, chịu
những trận nắng dữ dội, khiến cho từng cọng cỏ trở nên khô dòn. Từ trong các
khu đất rào nuôi cừu nhìn ra xa phải nheo mắt lại và kéo sụp vành nón rộng xuống
trán. Đồng cỏ – như mặt gương màu vàng óng ánh – cuốn thành hình trôn ốc trước
từng cơn lốc tạo ra những ảo giác xanh, sáng nhoáng; lá vàng và những cành khô
nhỏ bay lên, từ đống này sang đống khác. Khô hạn dữ dội! Ngay cả những cây lớn
cũng khô héo, vỏ tróc ra từng vạt cứng dòn. Những con cừu không bị ảnh hưởng gì
vì cỏ còn đó ít nhất một năm hay lâu hơn, nhưng con người thì không tránh khỏi
bị ảnh hưởng nặng bởi thời tiết khô cằn này. Người ta vẫn hy vọng năm sau hay
năm sau nữa mưa sẽ đến. Trong những năm may mắn, người ta được hưởng từ ba mươi
đến bốn mươi centimet lượng mưa; còn những năm thời tiết xấu chỉ còn năm
centimet hay không có gì cả. Mặc cho cái nóng thiêu đối và ruồi, Meggie vẫn yêu
sống ở những bãi chăn cừu. Vào những lúc rỗi rảnh, Meggie nghiên cứu thiên
nhiên, và nhớ đến Ralph như thường lệ. Trong đáy lòng mình, Meggie không bao giờ
coi tình cảm dành cho Ralph như một thứ tình cảm hết sức vẩn vơ của trẻ con;
Meggie vẫn coi đó hết sức đơn giản là tình yêu, tình yêu như trong các cuốn
sách. Thật là bất công, cái hàng rào giả tạo dựng lên bởi chiếc áo dòng đã chắn
giữa Meggie và điều mà cô chờ đợi ở Ralph: trở thành người vợ ông: Meggie ao ước
được sống với Ralph như cha mẹ cô sống với nhau và đạt tới một sự hòa hợp mà
ông sẽ yêu Meggie như ba đã yêu mẹ. Lúc đó Ralph sẽ nhanh chóng nhận ra rằng cuộc
sống chung với Meggie sẽ đáng sống hơn biết bao so với cuộc sống đơn độc.
Meggie không biết rằng Ralph không thể từ bỏ chiếc áo dòng bất cứ lý do nào.
Vâng, Meggie biết một linh mục không thể là chồng hay là người tình được nhưng
cô đã có thói quen vượt qua điều cấm kỵ ấy bằng cách phớt lờ chức năng tôn giáo
của Ralph. Những hiểu biết ít ỏi về đức tin công giáo chưa bao giờ giúp Meggie
có thể bàn đến những lời nguyện của một linh mục; vả lại bản thân cũng không có
nhu cầu bức thiết về tôn giáo và Meggie đã gạt ra ngoài những suy nghĩ sâu xa.
Chưa bao giờ thấy được an ủi với các lần cầu kinh, Meggie tuân theo các lề luật
của Nhà thờ chẳng qua vì sợ rằng nếu vi phạm sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.
Lúc
này đây, Meggie tưởng tượng đến hạnh phúc được sống chung, ngủ bên cạnh cha
Ralph. Nhưng chính ý nghĩ được gần gũi ấy bỗng làm Meggie bực bội rồi trở nên
khó chịu, bồn chồn. Ngồi trên lưng ngựa Meggie nghĩ đến vô số những nụ hôn mà
không hề biết rằng sự khó chịu bồn chồn kia xuất phát từ một đòi hỏi khác. Những
lần phi ngựa qua các bãi chăn cừu đã không giúp Meggie hiểu biết thêm chút nào
về vấn đề sinh lý vì rằng mùi chó săn từ xa đã cắt đứt ngay mọi thèm muốn cặp
đôi giữa những con cừu. Ngoài ra cũng như tất cả các trại chăn nuôi khác, người
ta không bao giờ để việc nhảy giống không tính toán trước xảy ra… Khi các con
cừu đực được thả chung với các con cừu cái trong một khu đất rào thì Meggie được
lệnh của cha phải đi nơi khác. Còn khi gặp một con chó nhảy lên một con khác,
phản ứng tự nhiên của Meggie là vung roi lên ngăn cản chúng… đùa giỡn. Chưa
chắc ai đã giải thích được trong hai điều sau đây điều nào tai hại hơn: một là
đòi hỏi lờ mờ, bồn chồn trong dạ rồi bực bội nổi lên, và một thèm muốn cụ thể
kèm theo nhu cầu rõ ràng được thỏa mãn. Meggie thì khắc khoải mà không hiểu rõ
đòi hỏi sau đó là gì, nhưng sự nổi dậy trong lòng thì rõ ràng là có và những
lúc như thế Meggie nghĩ đến Ralph một cách cuồng nhiệt, mơ tưởng, buồn khổ và
thèm muốn. Cuối cùng thì Meggie buồn phiền vì dù cho Ralph đã thú nhận yêu
mình, trên thực tế chẳng là gì cả trong lòng Ralph, cho nên chẳng bao giờ cha
trở về thăm Meggie. Giữa lúc Meggie miên man suy nghĩ, thì Pađy phi ngựa tới,
ông cũng đang trên con đường về nhà. Thấy con mỉm cười, Pađy ghìm ngựa lại và
chờ. – Một bất ngờ thú vị! Ông nói to và cho con ngựa già màu xám đi sát bên
con ngựa hồng của con gái. – Vâng, thú vị lắm, ba ạ. Ở các bãi xa có khô hạn
không ba? – Còn hơn ở đây. Chưa bao giờ ba thấy nhiều con căngguru như thế! Có
lẽ chúng không còn tìm thấy cái gì để ăn phía Milpariaka. Martin King dự định sẽ
giết chúng hàng loạt nhưng ba cho rằng như vậy cũng không có cách nào làm bớt
đi những con thú ấy, dù cho chúng ta có dùng đến súng máy đi nữa. Ông rất tốt,
rất ân cần, thông cảm và đáng yêu. Meggie rất ít khi gặp cha một mình. Không để
mất thì giờ suy nghĩ, Meggie hỏi cha ngay một băn khoăn đang cháy bỏng trên
môi, mặc dù cô đã cố gắng tự trấn an: – Ba ơi, tại sao cha Bricassart không trở
lại thăm chúng ta nữa? – Cha bận đấy con à, Pađy trả lời bằng một giọng thận trọng.
–
Nhưng các linh mục cũng nghỉ hè chứ ba? Cha rất yêu Drogheda. Con tin rằng cha
cũng thích đến nghỉ hè ở đây chứ. – Về mặt nào đó, đúng là các linh mục cũng
nghỉ hè, Meggie. Tuy nhiên họ luôn luôn ràng buộc với nhiệm vụ. Thí dụ ngày nào
trong cuộc đời của các cha cũng phải làm lễ, cho dù chỉ có một mình. Ba tin rằng
cha Bricassart rất chín chắn, cha biết rằng không thể nào trở lui lại lối sống
trước đây. Đối với cha Ralph, Drogheda gần như đã thuộc về quá khứ, Meggie, ba
nghĩ, nếu có trở về đây cha cũng không tìm lại được niềm vui xưa kia. – Có phải
ý ba muốn nói là cha đã quên chúng ta? Meggie hỏi, giọng buồn buồn. – Không
hoàn toàn như thế. Nếu đúng là cha Ralph đã thật sự quên chúng ta, thì cha đã
không viết thư thường xuyên và hỏi thăm từng người. Ba nghĩ rằng tốt hơn là cha
Ralph không nên trở lại đây nữa! – Ba nói sao? Pađy đã nhất quyết giải thích một
điều mà ông thấy trước sẽ không đơn giản. – Con nghe đây Meggie, thật không hay
chút nào nếu con cứ mơ tưởng đến một linh mục, con phải hiểu điều đó. Cho đến
nay con đã giữ được những bí mật của con. Ba không nghĩ rằng đã có ai đó biết được
chuyện của con; nhưng nay con đặt một số câu hỏi thẳng với ba phải không? Câu hỏi
đặt ra không nhiều, nhưng ba cho rằng như thế tạm đủ. Bây giờ con nghe và phải
tin ba nhé. Con phải chấm dứt ngay. Cha Ralph đã có những lời nguyền thiêng
liêng mà cha không bao giờ muốn làm ngược lại. Nếu còn tiếp tục như trước, con
không xứng đáng với tình cảm trong sáng mà cha Ralph đã dành cho con. Cha Ralph
biết con lúc con còn bé tí, nay cũng với hình ảnh và tình cảm đó, cha đã xử sự
với con như thế thôi Meggie à. Meggie không trả lời và trên gương mặt vẫn không
để lộ một xúc động nào. Pađy nghĩ: đúng là con gái của Fiona. Một lúc sau, bằng
giọng bực dọc, Meggie nói: – Nhưng ông ấy có thể thôi làm linh mục; ông ấy sẽ
hiểu ngay nếu con có dịp nói chuyện đó. Nét mặt Pađy trở nên hốt hoảng khiến
Meggie hiểu ngay những gì chứa đựng bên trong suy nghĩ của ba mình. Lời lẽ chắc
không còn cần thiết nữa, Meggie không dám nói thêm. – Meggie ơi! Lạy Chúa! Đây
là cái giá đắt nhất và tai hại nhất mà cuộc sống biệt lập của chúng ta phải trả!
Đáng lý con phải đến trường học, con gái của ba; nếu cô Mary chết sớm hơn thì
ba đã gởi con đi học ở Sydney, ở trường ít nhất hai năm nữa. Bây giờ con đã quá
tuổi rồi. Ba không muốn người ta chế nhạo con. Cha Ralph là một linh mục,
Meggie. Ông không bao giờ, mãi mãi
không
bao giờ dứt bỏ được chiếc áo dòng, con có hiểu không? Những lời khấn nguyện của
cha là thiêng liêng, quá long trọng và không thể bội phản. Khi một người đã
khoác áo linh mục, người đó không thể trở lại được; trước đó các đấng bề trên ở
tu viện cũng phải biết chắc người mới vào tu có hiểu được vì sao họ chọn con đường
phụng sự Chúa hay không. Người đã khấn nguyện không mơ hồ một chút nào rằng
ngay cả cái chết cũng không thể lay chuyển được sự chọn lựa của mình. Cha De
Bricassart đã khấn nguyện và cha sẽ không bao giờ dứt khoát được với lời nguyền
ấy. Bây giờ con đã biết, Meggie. Từ nay, nếu tiếp tục mơ tưởng cha De
Bricassart thì đó là điều không thể tha thứ được.
CHƯƠNG
15
Cha
Ralph De Bricassart nói bằng một giọng lạnh lùng nhưng không gay gắt lắm trong
khi mắt vẫn chăm chăm nhìn vào gương mặt xanh xao của vị linh mục trẻ tuổi. Từng
lời rõ ràng và cứng rắn, Ralph nói: – Cha hành động không xứng đáng với những
gì mà Chúa đòi hỏi ở các linh mục. Tôi tin rằng cha ý thức được điều đó hơn cả
chúng tôi, những người khiển trách cha. Dù thế, nhân danh Đức Tổng Giám Mục bề
trên của chúng ta, tôi vẫn phải lên án cha. Cha phải vâng lời Ngài tuyệt đối,
cha không được cãi lại những lời khuyên bảo và các quyết định của Ngài. Chắc
cha đã ý thức việc cha tự chôn vùi uy tín của mình, uy tín của xứ đạo và của
giáo hội mà đáng lý cha phải yêu thương và bảo vệ trên hết. Lời nguyện của cha
giữ mình trong sạch là thiêng liêng và không thể vi phạm; vi phạm lời nguyện đó
là một tội lỗi hết sức nặng. Tất nhiên cha sẽ không bao giờ gặp lại người phụ nữ
đó; chúng tôi sẽ giúp cha phấn đấu vượt qua sự cám dỗ. Chúng tôi đã lo liệu tất
cả để cha có thể lên đường đi nhận nhiệm vụ mới tại xứ đạo Darwin, ở miền Bắc.
Ngay tối nay cha đến Brisbane bằng chuyến tàu tốc hành và từ đây cha tiếp tục
đi cũng bằng tàu hỏa đến Longreach. Ở đó, cha lên máy bay hãng Quatas đi
Darwin. Hành lý của cha đang được đóng gói và sẽ giao lại cho cha trên chuyến
tàu tốc hành. Do đó cha khỏi cần phải quay trở lại xứ đạo của cha. Bây giờ cha
hãy đến nhà thờ cùng với cha John và cầu nguyện. Cha ở đó cho đến giờ ra ga để
tìm lại sự ổn định và an ủi tinh thần. Cha John sẽ đi theo cha đến Darwin. Bây
giờ thì cha có thể rời khỏi đây rồi. Sau khi vị linh mục trẻ tuổi cùng với người
được chỉ định đi theo canh giữ đã đi, cha Ralph rời phòng làm việc và sang một
phòng khác. Tổng giám mục Chiny Dark đang ngồi trong chiếc ghế bành của Ngài như
mọi khi, kế bên là một giáo sĩ mang thắt lưng và mũ nhỏ bằng vải đều màu tím. Tổng
giám mục là một người tầm vóc cao lớn, mái tóc bạc trắng, mắt màu xanh thật
sáng, rất yêu đời, có óc khôi hài ý nhị và thích ăn ngon. Người khách của Tổng
giám mục lại là một mẫu người hoàn toàn trái ngược lại: nhỏ bé, mảnh khảnh, vài
chúm tóc lưa thưa xuất hiện dưới cái mũ nhỏ bằng vải; gương mặt gầy, khắc khổ,
đôi mắt to không được vui, da sậm. Người ta có thể đoán tuổi của người này từ
ba mươi tới năm mươi, nhưng tuổi thật là ba mươi chín, hơn cha Ralph ba tuổi.
–
Con hãy ngồi xuống đây và nhấp một tách trà với chúng tôi, Tổng giám mục nói bằng
giọng hiền lành. Tôi đã chuẩn bị một bình trà khác. Con đã giải quyết xong vụ
linh mục trẻ với những lời răn dạy đúng mức để cho anh ta hối cải chứ? – Thưa Đức
cha, vâng. Ralph trả lời ngắn gọn. Linh mục Ralph ngồi xuống chiếc ghế thứ ba gần
bàn để đầy những bánh xăng uých với dưa chuột, bánh có kem lạnh màu hồng và trắng,
bánh bột chiên nóng phết bơ và những lọ thủy tinh đựng mứt, kem hột gà đánh nổi
lên. Một bộ đồ uống trà bằng bạc và những chiếc tách bằng sứ Aynsley bịt vàng
bên trên làm khung cảnh trở nên ấm cúng. – Những chuyện không hay ấy rất đáng
tiếc, ông bạn thân ạ, và mặc dù trong cương vị những kẻ phụng thờ Chúa như
chúng ta, vẫn phải nhìn nhận rằng chúng ta chỉ là những sinh vật yếu đuối – người
khách nói. Tối nay tôi sẽ cầu nguyện để Chúa giúp cho anh ta đủ nghị lực tránh
khỏi rơi vào những lầm lỗi cũ. Người khách có giọng nói nhẹ nhàng của người nước
ngoài quốc tịch Ý, hiện ông đang giữ cương vị Tổng giám mục, Khâm Mạng Giáo
Hoàng ở Úc, tên là Vitorio Scarbanza Di Contini Verchese. Vai trò tế nhị của
ông là làm gạch nối giữa giới chức Nhà thờ ở Úc và Tòa thánh Vatican, do đó ông
là giáo sĩ quan trọng nhất ở phần đất này của thế giới. Vị đại diện Giáo Hoàng
cũng là một người hết sức tinh tế; cầm chiếc tách trên tay, ông nhìn chăm chú về
hướng, không phải Tổng giám mục Chiny Dark, mà là cha Bricassart, theo dự tính
sẽ trở thành thư ký riêng của ông. Với Tổng giám mục Dark thì cha Ralph rõ ràng
là một người rất đáng mến nhưng vị đại diện giáo hoàng vẫn tự hỏi, về phần ông
thì ông sẽ đánh giá ra sao con người này? Cách cư xử của cha Ralph đối với bề
trên trực tiếp hiện giờ không có gì để bàn cãi. Đó là một người tế nhị, nhẹ
nhàng, thoải mái biết tôn kính nhưng không đi đến mức ngoan ngoãn vâng lời.
Linh mục lại có óc hài hước. Làm thế nào linh mục có thể thích ứng với một người
bề trên mới rất khác về tính tình so với người hiện nay? Theo thông lệ, thư ký
riêng của Khâm mạng Tòa thánh đều được chọn trong hàng ngữ giáo sĩ của Nhà thờ
ànhưng Vatican hiện rất quan tâm đến linh mục Ralph. Cha Ralph được chú ý không
chỉ do tài sản riêng của ông (trái với dư luận chung, Tòa thánh không có quyền
chiếm đoạt tài sản của ông, ngược lại về phần mình, ông cũng không có ý định
giao lại tài sản cho Tòa thánh), nhưng do lòng tự nguyện, ông đã mang lại rất
nhiều của cải cho Nhà thờ. Chính vì thế Vatican đã ra lệnh cho Khâm mạng của
giáo hoàng nhận linh mục De Bricassart làm thư ký riêng để thử thách và đánh
giá giá trị vị giáo sĩ trẻ tuổi này. Lòng đầy biết ơn, cha Ralph nhấp từng ngụm
trà trong im lặng – một sự im lặng không
bình
thường. Vì đại diện giáo hoàng nhận thấy ông chỉ ăn một miếng bánh mì xăng-uých
nhỏ, không kèm theo thứ gì hết, uống luôn bốn tách trà mà không cần thêm sữa
hay đường. Thế là mọi chi tiết đều rất khớp với báo cáo mà vị đại diện Vatican
đã nhận được. Trong các thói quen, cha Ralph đã tỏ ra hết sức giản dị, thanh bạch;
khuyết điểm duy nhất là ông đang sử dụng chiếc ô tô đẹp, chạy rất nhanh. – Con
đi rồi, cha sẽ thấy rất trống trải – Tổng giám mục Chiny Dark vừa nói vừa phủ một
lớp dày mứt và kem trên miếng bánh nướng rồi bỏ hết vào miệng. Linh mục Ralph cười.
– Trình Đức cha, Đức cha đã đặt cho con vào một thế lưỡng nan! Một bên là đấng
bề trên hiện tại và một bên là đấng bề trên tương lai của con. Nếu con trả lời
làm vui lòng một bên thì con sẽ làm mất lòng bên khác. Vậy liệu con có nên trả
lời rằng xa Đức cha con sẽ cảm thấy trống vắng vô cùng, nhưng đồng thời con rất
vui mừng trước nhiệm vụ sắp tới: phục vụ Đức cha Di Contini. Một cách nói rất
khéo. Đúng là một câu trả lời của nhà ngoại giao. Tổng giám mục Di Contini
Verchese bắt đầu nghĩ rằng một thư ký riêng như thế rất hợp đối với ông mặc dù
Ralph quá đẹp trai với nét mặt thanh tú, nước da sáng và thân hình cân đối. Bỗng
nhiên cha Ralph im lặng, mắt nhìn xa xôi. Ông hồi tưởng đến hình ảnh linh lục
trẻ vừa bị quở trách, đôi mắt đầy âu lo khi nghĩ đến con người trẻ tuổi này biết
rằng anh ta sẽ không được trở lại giã từ người mình yêu. Lạy Chúa toàn năng, nếu
trường hợp này là chính ông và Meggie thì ra sao? Người ta có thể bảo vệ được
uy tín trong sáng ở một thời gian nhất định nào đó, nếu giữ được sự kín đáo; rất
có thể uy tín đó sẽ lâu hơn nếu chỉ quan hệ với phụ nữ trong dịp nghỉ hè và dịp
xa xứ đạo của mình. Nhưng một quan hệ tình cảm đúng nghĩa và kéo dài thì không
thể nào không bị người khác khám phá. Có những lúc cha chỉ còn cách duy nhất là
quỳ gối trên nền đá cẩm thạch trong nhà nguyện cho đến tê dại vì sự đau đớn của
thể xác. Chỉ có cách đó cha Ralph mới tự ngăn mình nhảy lên chuyến tàu hỏa đi
Gillanbone và từ đó lao thẳng về Drogheda. Cha Ralph phải tự thuyết phục lòng
mình rằng cha chỉ là nạn nhân của sự cô độc, cha thiếu tình cảm con người dù
cha đã được mời mọc săn đón ở Drogheda. Cha đã nói đi nói lại với chính mình rằng
không có gì thay đổi sau lần cha đầu hàng trước sự yếu đuối trong chốc lát vì
đã hôn trả lại Meggie, rằng tình yêu mà mình đã dành cho Meggie còn là trong tưởng
tượng, chưa đi vào một thế giới khác đầy đủ những hiểm nguy cụ thể. Vì rằng
linh mục Ralph không chịu nhận có điều gì thay đổi trong quan hệ
giữa
ông và Meggie và coi như ông vẫn giữ trong đầu mình hình ảnh Meggie lúccòn là
cô bé; tự cấm mình không được quyền phá vỡ hình ảnh đó. Nhưng ông đã lầm. Sự
đau khổ không vơi bớt đi. Ngược lại ngày càng sâu nặng hơn và ghê gớm hơn. Trước
kia sự cô đơn của ông còn trừu tượng và ông hoàn toàn không nghĩ rằng có thể
vơi đi bởi một con người bằng xương bằng thịt khác. Nhưng giờ đây, nỗi cô đơn
đang đã mang một cái tên: Meggie, Meggie, Meggie… được lặp lại nhiều lần. Khi
vừa tỉnh khỏi cơn mơ, ông nhận ra Tổng giám mục Di Contini Verchese đang nhìn
ông chăm chăm, đôi mắt sâu thẳm tỏ ra minh mẫn hơn đôi mắt nhanh nhẹn của Tổng
giám mục Chiny Dark. Cha Ralph đủ thông minh để hiểu rằng mình không thể che giấu
tâm trạng u buồn, nên ông đã đáp lại đấng bề trên đầy quyền lực của mình bằng
cái nhìn sắc không kém. Ông nở một nụ cười đồng thời khẽ nhún vai như thể muốn
nói: mỗi con người đều ẩn chứa một nỗi buồn và không phải là tội lỗi khi nhớ đến
nỗi buồn riêng ấy. – Này con, tình hình kinh tế suy sụp bất ngờ có ảnh hưởng gì
đến những công việc mà con đang đảm trách không? – vị đại diện Tòa thánh hỏi bằng
một giọng dịu dàng. – Cho đến nay chúng ta không có gì đáng phải lo âu thưa Đức
cha. Công ty Michar Limited không bị ảnh hưởng nhiều vào các biến động thị trường.
Theo con nghĩ chỉ có những phương án đầu tư không được chín chắn như bà Mary
Carson mới bị thiệt hại. Dĩ nhiên lợi tức của trang trại Drogheda có thể không
như trước đây vì giá len có giảm. Bà Mary Carson là người thấy xa nên không chỉ
đầu tư trong chăn nuôi. Bà thích sự chắc chắn của kim loại hơn. Theo con, thời
buổi này rất thuận lợi để mua bất động sản, không chỉ đất đai ở nông thôn, mà cả
nhà và các bất động sản trong những thành phố lớn. Giá cả hiện nay xuống thấp một
cách kỳ lạ, vì thế chắc chắn rồi đây các loại bất động sản sẽ lên. Do đó con
không thể nào tưởng tượng được mình lại bị thua lỗ nếu đầu tư vào bất động sản.
Cuộc khủng hoảng phải chấm dứt một ngày nào đó. – Đúng thế, vị Khâm mạng tòa
thánh tán đồng. Vậy thì cha Ralph không chỉ sinh ra là một nhà ngoại giao mà
còn cho thấy ông là một nhà kinh doanh sắc bén! Đúng vậy, Tòa thánh La Mã không
thể không sử dụng một người như thế. Năm 1930, Drogheda cũng trải qua cơn khủng
hoảng. Nạn thất nghiệp đang hoành hành khắc nước Úc. Giá thực phẩm rất thấp nên
Pađy mua trữ đầy nhà kho. Bất cư ai bị khó khăn Pađy đều chia sẽ từng miếng cơm
manh áo. Những kẻ lang thang không nhà, thất nghiệp lũ lượt kéo nhau đến
Drogheda. Rồi họ lại tiếp tục lang thang. Có một số sống sót, một số khác chết
bờ chết bụi vì đói.
Trong
tình hình như thế, Stuart phải trở lại lo việc nhà, luôn thủ cây súng kế bên.
Các tay chăn nuôi giỏi rất dễ mướn. Pađy có tất cả chín người độc thân phụ việc,
họ ở một căn nhà cũ trước đây vẫn dành riêng cho đàn ông. Mùa đông năm đó khi
thì giông bão dữ dội, khi thì khô ráo, khi thì ẩm ướt; tiếp đó sang mùa xuân và
mùa hè mưa nhiều đến đỗi cỏ ở Drogheda mọc cao chưa từng thấy, rậm rạp và xanh
tươi. Jims và Patsy học hàm thụ, ngồi trước bàn ở nhà bếp nói chuyện với nhau
không dứt về cuộc sống nội trú ở trường Riverview tại Sydney. Rồi thời tiết khô
ráo lại trở về, cỏ cao quá đầu gối trở nên khô khốc, dễ gẫy, từ xa nhìn trắng bạc.
Không ai đoán được khi nào lại có mưa, nhưng ít ai quan tâm đến chuyện đó, dân
Drogheda quen sống chịu đựng với những bất thường và khắc nghiệt của trời đất.
Mùa đông năm 1932, những cơn giông bão kèm theo những đợt lạnh buốt xương, nhưng
cỏ vẫn còn um tùm và xanh do đó tránh được những cơn bụi tốc lên. Ruồi cũng ít
hơn mọi năm… Và một ngày tháng tám Pađy đi thăm một bãi chăn xa. Một cơn
giông ập tới. Ông bước xuống đất, cột ngựa thật kỹ vào một thân cây rồi ngồi dưới
tán của cây wilga chờ cho trời sáng tỏ. Năm con chó theo Pađy run sợ, nằm sát
vào nhau bên chủ, còn các con cừu mà Pađy định dời qua một bãi chăn khác thì tản
ra từng nhóm nhỏ hoảng sợ nhảy lung tung. Trận giông thật khủng khiếp chứa đựng
sự cuồng nộ tột độ của trời đất. Đột ngột trung tâm của cơn gió lốc chuyển đến
ngay trên đầu Pađỵ ông bịt cả hai tai, nhắm mắt và cầu nguyện. Không xa lắm nơi
ông ngồi núp dưới những cành lá thấp của cây wilga có một đống củi khô, xung
quanh cỏ mọc rất cao. Giữa đống củi khô ấy có một cây khuynh diệp khẳng khiu,
chỉ còn lại thân trơ trụi cao hơn 12 mét chĩa thẳng lên những đám mây đen như mực
đang vần vũ. Một ánh lửa xanh chớp lên như xé toạc hai mí mắt đã nhắm của Pađy
khiến cho ông tự nhiên phải bật dậy. Liền đó một tiếng nổ long trời hất ông ngã
lăn xuống đất như một con rối. Mặt phủ đầy bụi nhưng ông vẫn kịp thấy chùm ánh
chớp tạo ra một cảnh sắc chưa từng thấy. Dọc theo thân cây chết đứng sừng sững
như một ngọn giáo, tỏa ra những vầng sáng xanh và đỏ rực làm chóa mắt. Rồi tiếp
đó trước khi Pađy ý thức được chuyện gì đã xảy ra thì lửa đã cháy bùng lên. Giọt
nước cuối cùng đã bốc hơi từ lâu trên đống củi chết, cỏ mọc cao và khô ran như
giấy. Như một thách thức của đất đối với trời, thân cây khổng lồ biến thành một
cột lửa cháy thật cao, vượt cả chiều cao của cây rất xa. Không mấy chốc các
cành chết và các gốc cây gần đó cũng bốc
cháy.
Dưới cơn gió xoáy, vòng lửa lan ra thật nhanh, càng lúc càng rộng. Pađy không kịp
tháo dây thả ngựa ra. Cây wilga khô cằn cũng cháy, chất nhựa bên trong làm nổ
thân cây. Đâu đâu Pađy cũng thấy lửa, khắp nơi trước mắt ông dựng lên những bức
tường đỏ rực. Cây cối biến thành những bó đuốc không lồ, còn cỏ dưới chân ông
như những con thú dữ vừa bắt vừa gầm lên. Ông nghe tiếng hí thảm thiết của con
ngựa, tim ông nhói đau. ông không thể nào cứ để cho con vật đáng thương bị cột
bất lực chờ chết. Một con chó rống lên, tiếng rống ấy biến thành tiếng kêu hấp
hối gần hệt như tiếng người. Bỗng chốc, con vật từ đâu vọt ra, tưởng như nhảy
múa, đúng là một cây đuốc sống. Không bao lâu nó ngã lăn xuống cỏ đang cháy,
yên lặng. Những tiếng rống của mấy con chó khác vang dội lên, chúng tìm cách
thoát thân trong tuyệt vọng; lửa bắt nhanh giữa cơn gió giận dữ, nhanh hơn bất
cứ sinh vật nào có chân và có cánh. Đang tự hỏi trong khoảnh khắc mình nên chọn
phương án nào tốt nhất để cứu con ngựa thì một ánh lửa vụt đến nhu sao xẹt
ngang đầu Pađy, cháy xém tóc ông. Nhìn xuống ông thấy một con vẹt to tướng bị
thui sống dưới chân. Bỗng chốc, Pađy hiểu ra rằng thế là hết. Không còn cách
nào thoát ra khỏi cái địa ngục này, cả ông và con ngựa. Giữa lúc ý nghĩ ấy đến
trong đầu ông thì một cây khô gần đấy, cháy rực lên, ngọn lửa phát ra đủ hướng,
chất nhựa bên trong nổ bùng. Da tay của Pađy nhúm lại, đen sì, màu tóc sáng
chói của ông như phai nhợt đi dưới ánh lửa rực sáng hơn gấp bội. Một cái chết
như thế không thể nào tả xiết. Quần áo cháy bừng bừng, Pađy giẫy giụa giữa lò
thiêu sống. Và mỗi tiếng hét lên thảm thiết đều chỉ gọi một cái tên: tên vợ của
ông, Fiona.
CHƯƠNG
16
Tất
cả những người khác đều kịp về Drogheda trước khi cơn bão đến, họ bỏ ngựa ở
ngoài sân và hối hả hoặc chạy vào ngôi nhà lớn hoặc vào căn nhà dành cho những
người đàn ông độc thân. Trong phòng khách được Fiona trang hoàng, đèn sáng rực.
Anh em gia đình Cleary ngồi quanh lò sưởi lắng nghe tiếng gió gào thét. Không
ai có ý định ra ngoài để chứng kiến cơn phẫn nộ của trời đất. Mùi củi khuynh diệp
cháy thật dễ chịu. Bánh xăng-uých và bánh ngọt bày đầy trên chiếc bàn nhỏ ở đó
có sẵn ấm trà. Tất cả đã giữ họ lại trong thứ không khí êm đềm. Cả gia đình
không hề chờ đợi Pađy trở về vào lúc này. Khoảng bốn giờ, các đám mây kéo về hướng
tây, bất giác mọi người đều thấy dễ thở hơn. Thật ra chẳng ai có thể yên tâm được
giữa lúc cơn bão khô đang hoành hành, dù mỗi nhà ở Drogheda đều có cột thu lôi.
Jack và Bob đứng lên, lấy cớ ra ngoài để hít thở không khí, nhưng thật ra là để
trút bỏ những lo âu vây hãm. – Xem kìa! Bob đưa tay chỉ về hướng tây. Sau những
ngọn cây bao quanh bãi chăn chính, một màn khói vàng sậm thật dày phủ cả một
góc chân trời và càng lúc càng lan rộng mà nhìn từ xa như những tấm biểu ngữ khổng
lồ rách tơi tả vì gió. – Trời ơi! Jack chỉ kịp kêu lên rồi chạy đến máy điện
thoại. – Cháy! Cháy! Jack hét lớn, trong khi những người khác sau phút bàng
hoàng cũng ùa chạy ra ngoài. Jack tiếp tục hét: cháy dữ dội ở Drogheda! Rồi
Jack bỏ máy xuống. Anh không cần nói gì thêm với người trực tổng đài ở Gilly. Mặc
dù gia đình Cleary từ khi đến đây chưa hề chứng kiến một vụ cháy nào nhưng ai
cũng đều biết mình phải làm gì. Đám con trai chạy tìm ngựa, những người làm
thuê nhanh chóng rời lán trại, trong khi ấy bà Smith mở cửa một trong những
kho, phân phát ngay mấy chục chiếc bao tải bằng vải. Cột khói càng ngày càng
cao ở phía tây và gió lại thổi từ hướng này, đám cháy đe dọa tiến vào trung tâm
vùng Drogheda. Fiona thay chiếc váy, lấy quần của Pađy mặc vào rồi theo Meggie
chạy ra chuồng ngựa. Tất cả người trong gia đình này ai cũng biết sử dụng chiếc
bao tải để dập lửa. Giữa cơn giông bão lại đánh hơi mùi khói mấy con ngựa lồng
lên không chịu để thắng yên dễ dàng.
Bob
và mấy người làm thuê đi được năm phút. Fiona và Meggie phi nước đại dọc theo
con suối rồi tiến thẳng về phía màn khói dày đặc đang cuồn cuộn bốc cao. Phía
sau Tom và người làm vườn, vừa bơm đầy nước vào chiếc xe xitéc và nổ máy ngay.
Trước một đám cháy rừng như thế này, việc tiếp nước như vậy chẳng thấm vào đâu;
thật ra số nước này chỉ để giữ cho các bao vải luôn luôn ướt và cũng như để tưới
lên người cho những ai có nhiệm vụ xông vào đàn áp lửa. Trên con đường về hướng
tây, đi ngang qua dãy nhà ở mép ngoài nơi có khả năng bị cháy trước tiên, Tom bỗng
nảy ra ý kiến xịt vòi rồng tưới ướt trước ba căn nhà này, trong đó có căn nhà của
người quản lý. Trong lúc Meggie phi ngựa bên cạnh Fiona, màn khói ở phía tây càng
bừng lên dữ dội, một mùi cháy khét gay gắt. Bóng tối bắt đầu phủ trùm; các loại
thú chạy tán loạn về hướng đông, băng qua khu đất kết thành từng đoàn dày đặc;
nào là căngguru, heo rừng, cừu, đà điểu, gấu có túi và hàng ngàn thỏ. Meggie
nói với mẹ “Bob đã mở các cổng”. Lúc này hai mẹ con đang từ khu đất rào nuôi cừu
mang tên Borehead đi đến khu đất Billa – Billa. Giống cừu thật đần độn. Khi chạm
mặt vào hàng rào thì dù cho cách đó không bao xa có một cái cổng đã mở, chúng vẫn
không biết làm sao chạy thoát ra được. Cánh đàn ông đến nơi thì đám cháy đã di
chuyển đến 15 cây số, trải rộng theo chiều ngang và lan ra từng giây một. Trước
cảnh tượng lửa cháy từ lùm cây này sang lùm cây khác, gió thổi mạnh bắt mồi khắp
các đám cỏ mọc cao, cánh đàn ông như bị chết cứng trên ngựa, họ nhìn về hướng
tây bất lực. Những con ngựa, tỏ ra hoảng sợ và họ không thể điều khiển được nữa.
Đừng mong gì khoanh đám cháy lại ở mỗi chỗ này; cả một đội quân đông đảo cũng
không mong làm được. Chỉ còn cách là trở về khu nhà ở và dốc hết sức mà bảo vệ
khu này. Chiều rộng của đám cháy đang lan dần, khoảng bảy cây số. Nếu họ không
thúc ngay mấy con ngựa mệt mỏi quay trở về thì không còn kịp thoát thân nữa. Tiếc
thay những con cừu. Tiếc quá nhưng họ không thể làm gì để cứu chúng. Nhiều xe hơi
đậu gần nhà và trên đường từ Gilly đến, nhiều ánh đèn pha nối nhau chói sáng
trong đêm. Khi Bob vừa vào tới sân nhà, thì một đám đông đang chờ sẵn anh tạ –
Tình hình thế nào Bob? Martin King hỏi. Bob trả lời với vẻ thất vọng. – Theo
tôi, đám cháy quá lớn, khó mà dập tắt được. Chiều ngang đến bảy cây số và gió
như thế này thì lửa bắt tới nhanh còn hơn cả ngựa phi nước đại. Tôi không biết
chúng ta có thể cứu trang trại không, nhưng về phần Horry chắc chắn ông ấy phải
chuẩn bị bảo vệ sản nghiệp vì lửa đã sắp đến đó. Tôi không nghĩ ra cách nào để
có thể ngăn chặn.
Martin
King được giao quyền chỉ huy ba trăm người chủ yếu để bảo vệ Drogheda. Ông là
người chăn nuôi lâu năm nhất trong vùng và từng chiến đấu với các vụ cháy rừng
năm mươi năm qua. – Tôi có sáu chục ngàn mẫu ở Bugela – ông ta nói. Vào năm
1905, tôi bị trắng tay, hết sạch cừu và cả cây cối trong trang trại. Mười lăm
năm sau tôi mới gầy dựng lại được; có lúc tôi tưởng phải bó tay vì giá len chẳng
là bao và cả thịt bò cũng thế. Bên ngoài những trận cuồng phong vẫn ào ào thét,
mùi cháy khét khắp nơi. Vào nửa đêm, phía tây vẫn đỏ rực một thứ ánh sáng của địa
ngục, khói và tro từ trên cao phủ xuống khiến mọi người phải ho sặc sụa. Một
lúc sau, mọi người nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên như những cái lưỡi khổng lồ
nhảy múa uốn khúc. Sau màn khói khoảng 30 mét; rồi một tiếng gào thét ầm ĩ nổi
lên không khác tiếng gào thét của một cầu trường đông nghẹt khán giả điên cuồng
hò hét. Hàng cây bọc quanh khu đất rào nuôi cừu ở hướng tây bốc cháy và biến
thành một bức tường lửa dày đặc, rực sáng. Đứng trên hành lang của ngôi nhà lớn,
hai mắt mở to kinh hãi; Meggie sửng sốt nhìn thấy rõ từng bóng người li ti in
trên lửa, nhảy tới nhảy lui, tay chân cử động hỗn loạn. Hai tiếng đồng hồ sau,
cánh đàn ông đầu tiên quay về. Mệt nhừ, họ ngả nghiêng lục tìm bất cứ thứ gì có
thể ăn được để lấy lại sức rồi trở về biển lửa tiếp tục chiến đấu. Phụ nữ ở nhà
được huy động để lo việc tiếp tế, ăn uống, làm sao luôn có đầy đủ món ragu cừu,
bánh mì, trà nóng, rượu Rhum và bia cho ba trăm người. Khi một vụ cháy lớn xảy
ra, ai ai cũng có nhiệm vụ của mình. Giữa hai đợt vào bếp lấy thức ăn tiếp tế
cho cánh đàn ông Meggie quan sát đám cháy, lòng ngập tràn một thứ kính cẩn lạ
lùng đối với sức mạnh vô hình trong đó lẫn lộn sự âu lo và kinh hãi. Điều ghê gớm
đang diễn ra lại ẩn chứa cái đẹp hơn hẳn bất cứ kỳ quan nào đang có trên trái đất
này, vì rằng cái đẹp đó thuộc về trời đất, thuộc về những thái dương thật xa
xăm đến nỗi ánh sáng của nó đến đây đã giá lạnh. Đó là cái đẹp từ thượng đế và
từ quỷ mà ra. Bây giờ trận biển lửa ấy nổi lên màu đen, màu cam, màu đỏ, màu
vàng và màu trắng. Một thân cây thật to đen sì hiện rõ lớp vỏ ánh lên màu cam rực
lửa, than hồng vừa tách ra khỏi thân bay chập chờn như những bóng ma tinh quái.
Thật thế, một cảnh tượng vĩ đại giữa đêm đen. Meggie sẽ nhớ mãi suốt đời. Trung
tâm sống còn của Drogheda chỉ cách ranh giới phía đông của trang trại năm cây số,
nơi gần Gilly nhất. Beel Beel tiếp nối liền với trang trại và xa hơn nữa về
phía đông là Narrengang. Khi trận cuồng phong ào ào với tốc độ tám mươi cây số
giờ, thì cả vùng đều hiểu rằng, ngoại trừ một cơn mưa to ập xuống đúng lúc,
không có cách nào tránh được lửa tiếp tục cháy trong nhiều
tuần,
biến hàng trăm cây số đất đai màu mở trở thành sa mạc. Giữa lúc nguy ngập như
thế thì nhờ Tom mà nhà cửa gần con suối vẫn còn nguyên. Ông ta như người bị quỷ
ám, cứ mang xe bồn đi đổ đầy nước, rồi tưới ào ào vào tường nhà, rồi lại đi lấy
nước và lại phun liên tục. Nhưng khi cơn gió nổi lên dữ dội, Tom đành phải tháo
lui đầu hàng, nước mắt ràn rụa. Nhà cửa ở đó không thể cứu được nữa rồi. – Đáng
lý ra ông bạn nên quỳ gối xuống và tạ ơn Chúa, tốc độ gió phía trước đám cháy
đã không gia tăng – Martin King phân tích – Nếu không, tất cả nhà cửa ở trang
trại này đều cháy sạch và cả chúng ta cũng thành tro bụi. Cầu Chúa cho những người
ở Beel Beel được thoát chết. Fiona trao cho Martin King một ly rượu rhum thật lớn.
Không còn là một thanh niên nữa nhưng ông ta vẫn đủ sức chiến đấu đến phút cuối
cùng khi cần thiết, ông ta đã chỉ huy nhiều cuộc chữa cháy một cách thành thạo.
– Thật là vớ vẩn – Fiona nói – vào cái lúc mà tôi tưởng rằng tất cả sẽ mất hết
thì những suy nghĩ kỳ cục nhất lại xuất hiện trong đầu. Tôi không hề nghĩ đến
cái chết, cũng không nghĩ đến con cái hay ngôi nhà nguy nga đẹp đẽ này sẽ bị
thiêu hủy. Tôi hoàn toàn không thể nghĩ đến cái gì khác hơn là cái giỏ may vá của
tôi, cái áo len mà tôi đang đan, cái hộp đựng nút mà tôi để dành nhiều năm, nhớ
đến cái khuôn bánh hình trái tim mà Frank đã tự tay làm lâu rồi. Làm sao tôi có
thể tiếp tục sống nếu thiếu tất cả những món ấy? Tất cả những thứ nhỏ nhặt đều
không thể tìm mua ở tiệm. – Đó là những suy nghĩ đã đến trong đầu của hầu hết
phụ nữ – Martin King tán đồng – Tôi còn nhớ vụ cháy năm 1905, trong khi tôi vỡ
phổi để lo ngăn chặn lửa thì vợ tôi hoảng hốt chạy vào nhà để lo cứu… cái
công trình dở dang của bà, đó là một mẫu thêu còn nằm trên bàn căng. Khi cất
xong căn nhà mới, vợ tôi hoàn thành liền mẫu thiêu đó, một trong những mẫu thêu
để ngợi ca kỷ niệm của ngôi nhà. Ngôi nhà – ngôi nhà thân yêu bà hiểu ý của tôi
muốn nói chứ. Thôi, tôi phải đi đây. Gareth Davie ở Narrengang có lẽ cần chúng
tôi tiếp tay và nếu tôi không lầm thì chẳng bao lâu nữa Angus ở Hunish cũng sẽ
rơi vào một tình thế tương tự Fiona tái mặt: – Ồ, Martin! Chẳng lẽ lửa lại lan
xa đến thế? – Chúng tôi vừa hay tin Booroo và Bourke đã bị đe dọa bà Fiona ạ.
Ba ngày liền sau đó, lửa tiếp tục lan về hướng đông trên chiều ngang cứ mở rộng
ra. Nhưng rồi đột ngột một cơn mưa thật lớn trút xuống như thác, liên tiếp gần
bốn ngày và dập tắt đi những ngọn lửa cuối cùng. Nhưng bấy giờ đám cháy đã lan
ra một trăm sáu chục cây số, để lại đằng sau
một
vùng đất rất rộng đen sì chiều ngang 30 cây số, từ trung tâm Drogheda cho đến
ranh giới cuối cùng của thị trấn Gillanbone là Rudna Hunish. Cho đến khi mưa
trút xuống, không ai chờ đợi sẽ được tin tức của Pađy vì rằng mọi người nghĩ
Pađy đang an toàn ở đâu đó bên kia biển lửa. Ai cũng nghĩ ông mất liên lạc với
gia đình vì cái nóng vẫn còn thiêu đốt và cây cối vẫn tiếp tục cháy âm ỉ. Nếu
đám cháy không làm hư hỏng đường dây điện thoại, thì có lẽ sẽ gọi được về nhà.
Chắc là Pađy đã phi ngựa về hướng tây và tìm chỗ ẩn trú ở Bugela. Nhưng trong
sáu giờ liền mưa đổ xuống, vẫn không có tin tức, bấy giờ cả gia đình có phần âu
lo. Rồi luôn trong bốn ngày sau đó, họ vẫn nói với nhau là không có gì phải băn
khoăn. Pađy không thể về nhà trong thời tiết này và có lẽ ông ta quyết định ở lại
đó chờ cho đến khi nào có thể về thẳng Drogheda chứ không phải đến chỗ của
Martin King. – Đáng lý giờ này ba phải về rồi, Bob bồn chồn nói. Anh đi tới đi
lui trong phòng khách dưới những cặp mắt đầy âu lo. Cái oái ăm là mưa đã mang lại
một không gian mát mẻ đột ngột và trong lò sưởi ánh lửa lại bập bùng. – Bây giờ
anh tính thế nào hở Bob? – Jack hỏi. – Theo anh, đã đến lúc chúng ta chia nhau
đi tìm ba. Biết đâu ba bị thương hoặc đi bộ và phải băng qua một đoạn đường dài
để trở về nhà. Cũng có thể, con ngựa của ba quá sợ hãi và hất ba ngã nhào, thế
là ba phải nằm đâu đó, không đi được. Ba chỉ mang đủ lương thực ăn trong một hoặc
hai ngày mà thôi, tuy nhiên anh không nghĩ rằng ba bị chết đói. Nhưng bây giờ
chúng ta không có cách nào để báo động cho mọi người biết, anh sẽ không kêu gọi
những người ở Narrengang tiếp tay, nhưng nếu từ đây đến tối không tìm ra ba, anh
sẽ đến trang trại Dominic và ngay sáng mai thì tất cả những người dân trong
vùng sẽ cùng chúng ta đi tìm ba. Trời ơi, phải chi đường dây điện thoại được phục
hồi ngay. Fiona run lên, mắt đỏ ngầu như đang trong cơn sốt không khác một con
vật đang bị săn đuổi. – Tôi đi mặc quần dài vào ngay, bà nói. Tôi không thể nào
ở nhà chờ được. – Mẹ ơi, mẹ nên ở nha! Bob van xin. – Nếu ba con bị thương, ba
có thể nằm tại đâu đó, Bob ạ. Có gì bảo đảm ba con không bị thương nặng. Con đã
cho tất cả anh em công nhân đi Narrengang để tiếp tay ở đó rồi, chúng ta đâu
còn bao nhiêu người để đi tìm ba con. Mẹ sẽ đi với Meggie, như thế Meggie và mẹ
sẽ đủ sức đối phó
với
mọi bất trắc. Còn nếu Meggie đi một mình thì nó lại cần thêm một người khác đi
với nó, như thế lại mất bớt người. Bob đành chìu theo ý mẹ. – Thôi được, thưa mẹ.
Mẹ có thể cỡi con ngựa thiến của Meggie. Mọi người nên mang súng đạn đầy đủ.
Trên lưng ngựa, họ băng qua con suối và đi sâu vào vùng đất điêu tàn. Không còn
lại một dấu vết nào của màu xanh hay cả màu xám của đất, không còn một thứ gì cả
trên khoảng bao la của đất đai cháy thành tro, đen sì và ẩm ướt. Lạ lùng thay,
đến giờ này sau bốn ngày mưa liên tục mà khói vẫn còn bốc. Mỗi một chiếc lá
trên cây đều biến thành một mảnh khô cháy co rúm lại và cứ nơi nào trước kia có
cỏ thi người ta thấy rải rác những đống nhỏ đen thui, đó là những con cừu bị chết
cháy. Thỉnh thoảng chợt thấy những đống to hơn, đó là bò hay heo rừng. Trên gò
má từng người, nước mắt trộn lẫn với nước mưa. Bob và Meggie đi đầu, tiếp đó là
Jack và Hughie, Fiona và Stuart đi phía sau. Thỉnh thoảng mấy con ngựa hí vang,
khịt mũi vì đối đầu thêm một cảnh tượng hãi hùng, nhưng Fiona và Meggie thì thản
nhiên vì đầu óc chỉ nghĩ đến Pađy. Mặt đấy lầy lội khiến họ tiến rất chậm và
khó khăn nhưng rất may có cháy lớp lớp dưới chân làm thành một tấm thảm bằng sợi
có chỗ cho chân ngựa bám vào. Đi được một đoạn, họ lại cứ nghĩ Pađy đã xuất hiện
ở đàng xa nhưng thời gian cứ trôi qua mà chẳng thấy Pađy đâu cả. Tim họ nhói
lên khi nhận ra đám cháy đã lan rộng nhiều hơn là họ nghĩ, đến tận đất nuôi cừu
ở Wilga. Có lẽ những đám mây trong cơn giông vừa qua đã che khuất khói cho đến
khi ngọn lửa đến gần một khoảng cách nào đó thì từ Drogheda mới thấy được. Những
ranh giới của đám cháy làm cho tất cả bàng hoàng. Một phía là đường chân trời nổi
rõ lên màu đen sì như một thứ hắc in bóng loáng, còn bên kia là một màu xanh và
màu hung quen thuộc, buồn tẻ dưới cơn mưa. Bob dừng ngựa lại nói với Fiona: – Bắt
đầu từ đây, chúng ta sẽ chia nhau đi tìm ba. Con sẽ đi về hướng tây, đó là hướng
có khả năng nhất để tìm ra ba, con được trang bị đầy đủ để đối phó mọi bất trắc.
Tất cả chúng ta đều đem đủ đạn chứ. Rất tốt. Bất cứ ai phát hiện được một vết
tích gì, cứ bắn lên trời ba phát súng, còn ai nghe được thì chỉ trả lời bằng một
phát rồi chờ. Ai đã bắn ba phát thì cứ tiếp tục bắn như thế sau năm phút, còn
những ai nghe thì đáp lại một phát. Bob nói tiếp:
–
Jack, em hãy đi xuống hướng nam, dọc theo đường cháy. Hughie, em đi hướng tây
nam, còn anh hướng tây. Mẹ và Meggie cứ đi về hướng tây bắc. Stuart, em lần
theo phía rìa đám cháy thẳng phía bắc. Và hãy nghe lời dặn này, phải tiến thật
chậm. Mưa làm mắt chúng ta không nhìn rõ ở xa, cây bị cháy nằm ngả nghiêng rất
nhiều. Hãy gọi nhau thường xuyên, có thể ba không thấy chúng ta nhưng nghe được
tiếng gọi. Đừng có bắn súng nếu không phát hiện chuyện gì đặc biệt. Ba không có
mang theo súng, do đó nếu ba nghe súng nổ mà không thể lên tiếng được thì sẽ
rơi vào một tâm trạng rất hoang mang. “Chúc tất cả may mắn. Chúa phù hộ chúng
ta.” Không khác những người hành hương chia tay nhau ở ngã tư cuối cùng, từng
người mất hút dưới màn mưa, tiến sâu về hướng đã được phân công. Đi chưa đầy một
cây số, Stuart chú ý một lùm cây cháy đen ở gần đường ranh của đám cháy. Cậu ta
chú đến một cây wilga thấp, đen sì và nhăn nheo như chùm tóc xoắn của một chú
bé da đen, bên cạnh đó một thân cây cao to bị thiêu rụi còn đứng ở ngoài rìa
tuyến lửa. Rồi Stuart lại phát hiện thêm dấu vết còn lại xác con ngựa của Pađy
cháy nám và một gốc lớn của cây gôm. Hai con chó của Pađy chỉ còn là những đống
đen thui, bốn cẳng chĩa thẳng lên trời, cứng đơ như bốn cây gậy. Cậu ta xuống
ngựa, đôi giày bốt ngập bùn đến cổ chân, thế rồi cậu ta rút cây súng ra khỏi
yên ngựa, hai môi mấp máy cầu nguyện, lần tìm đường đi giữa những vũng bùn trơn
trợt. Nếu không tìm thấy những gì còn lại của con ngựa và hai con chó, Stuart vẫn
có thể thầm hy vọng nạn nhân có thể là một kẻ lang thang nào đó. Nơi này nằm
quá sâu giữa trung tam Drogheda, do đó cũng khó nghĩ đến nạn nhân là một người
chăn bò hay chăn cừu đến từ Bugelạ Xa một chút, Stuart phát hiện xác của ba con
chó còn lại; Pađy đem theo năm con chó tất cả. Cậu ta biết sẽ không có xác con
chó thứ sáu, và cậu ta đã đoán không sai. Cách xác con ngựa không xa, khuất sau
một thân cây nằm ngang là những phần còn lại của một xác người. Không thể nào lầm
được. Ướt đẫm dưới cơn mưa, cái hình thù màu đen nằm ngửa, cong theo vòng cung,
hai mông và hai tay chấm đất. Hay tay dang rộng ra, mấy ngón tay lộ xương vì thịt
đã rã, co rút lại như đang bấu víu vào khoảng không. Hai chân cũng hơi dang ra,
hơi co lại ở đầu gối, còn ở nơi mà trước kia là cái đầu thì chỉ còn hai hố mắt
trống trơn! Trong một lúc, ánh mắt trong và sáng quắc của Stuart hướng thẳng
vào cha cậu. Stuart không thấy đó là thân xác đã bị thiêu rụi mà thấy cha mình
vẫn nguyên vẹn như khi còn sống. Cậu ta chĩa súng lên trời và bắn, rồi lại nạp
đạn và bắn phát thứ hai, rồi phát thứ ba. Có tiếng súng nổ vọng lại từ xa; thêm
một tiếng súng khác xa hơn nghe văng vẳng. Lúc đó Stuart đoán ra rằng
tiếng
súng gần hơn hết có lẽ là của mẹ hay của Meggie. Cả hai đi về hướng tây bắc,
còn cậu ta ở hướng bắc. Không chờ đúng năm phút đúng như Bob đã dặn, Stuart lại
nạp đạn và chĩa súng hướng nam bóp cò. Lại nạp đạn, bắn phát thứ hai rồi thứ
ba. Stuart đặt súng xuống đất nhón người lên nhìn về phía nam, đầu hơi nghiêng,
ngóng nghe chờ đợi. Lần này có tiếng súng đáp lại của Bob từ phía tây, tiếng
súng kế tiếp của Jack hoặc Hughie và tiếng thứ ba của mẹ. Cậu ta thở ra nhẹ
nhõm; Stuart không muốn những người đến trước tiên là mẹ và Meggie. Mãi suy
nghĩ Stuart không thấy con heo rừng thật lớn xuất hiện từ hướng bắc sau những
thân cây cháy, dù cậu ta đã nhận ra cái mùi của nó trước vài giây. To gần bằng
một con bò cái, cái khối thịt ấy rung rinh di chuyển trên bốn chân ngắn ngủn và
thật khỏe; nó vừa đi đầu lủi xuống đất, mõm bới tìm cái gì đó trong đất đen và ẩm.
Tiếng súng làm cho nó phải động đậy, thật sự con heo rừng cũng đang chịu đựng một
số đau đớn kinh khủng, lớp lông đen thưa thớt một bên bị cháy làm lòi da thịt đỏ
tươi. Cái mùi Stuart nghe được khi cậu ta đang còn nhìn về hướng nam đúng là
mùi dễ chịu của da con heo đang quay trong lò. Đột ngột bị kéo ra khỏi trạng
thái u buồn đeo bám, Stuart quay đầu lại và có cảm giác hình như đã đến đây một
lần nào rồi; cái nơi đen sẫm và nhớp nhúa này như đã in sâu trong đầu Stuart từ
ngày mở mắt chào đời. Stuart nhìn xuống kiếm khẩu súng và nhớ ra súng chưa nạp
đạn. Con heo rừng dừng lại, hai mắt đỏ ngầu như đang chịu đựng nỗi đau đớn dữ dội.
Hai chiếc nanh dài màu vàng, nhọn hoắc hất lên cao một nửa vòng tròn. Con ngựa
của Stuart hí vang vì ngửi thấy mùi thú dữ. Con heo rừng quay chiếc đầu to tướng
về phía con ngựa rồi cúi xuống với ý định tấn công. Stuart hiểu rằng hy vọng
duy nhất để cậu ta thoát thân là con heo rừng chú ý đến con ngựa. Stuart khom
xuống lấy súng, một tay kéo nòng súng, còn tay kia cho vào túi áo vét để tìm
viên đạn. Chung quanh mưa vẫn rơi làm át đi mọi tiếng động đó, nó đột ngột đổi
hướng, lao thẳng vào Stuart. Con vật đã gầm chạm vào cậu ta thì tiếng súng nổ
tuy trúng ngay ngực nó nhưng không làm giảm tốc độ lao vào người Stuart. Hai
cái nhanh hất ngược lên, cày nát phần ở giữa hai chân của Stuart. Cậu ta ngã xuống,
máu phun ra đầy quần áo và ướt cả đất. Con heo rừng quay mòng mòng đau đớn vì
trúng đạn, muốn tấn công đối thủ một lần nữa nhưng nó chệnh choạng sụm xuống. Cả
cái khối thịt 600 kilô nằm lên người Stuart ép chặt đầu cậu ta xuống bùn đen.
Trong khoảnh khắc, hai bàn tay của Stuart bấu xuống đất, thân người run rẩy, cố
vùng lên trong tuyệt vọng. Thế là Stuart nhận ra điều mình vẫn biết trước từ
lâu, tại sao mình không bao giờ hy vọng, không bao giờ vạch ra một kế hoạch nào
cho cuộc đời mà chỉ chờ đợi bằng cách đắm chìm vào cái thế
giới
sống động, cậu ta không còn thì giờ để thương hại cho số phận chờ đợi mình. Mẹ
ơi, mẹ! Mẹ ơi! Con không thể ở lại với mẹ! Đó là ý nghĩ cuối cùng vào giây phút
tim của cậu ta vỡ trong lòng ngực. – Tại sao Stuart lại không nổ súng nữa? –
Meggie hỏi mẹ. Hai mẹ con đi ngựa về hướng đã nổ hai loạt súng nhưng không thể
hối thúc con ngựa đi nhanh hơn trên bùn lầy; tim thắt lại vì âu lo. – Có lẽ
Stuart nghĩ tất cả chúng ta đều nghe rồi, Fiona trả lời Meggie. Nói thế nhưng
trong tậy đáy lòng bà vẫn nhớ gương mặt của Stuart lúc chia tay nhau mỗi người
đi một hướng, nhớ cái cách mà Stuart đã siết tay bà và nụ cười của Stuart khi
nhìn bà. – Chúng ta không còn cách bao xa nữa – bà ta nói vừa thúc con ngựa chạy
nhanh hơn. Nhung Jack đã đến nơi trước, có cả Bob. Họ chặn không cho hai phụ nữ
đến gần khi vượt qua phần đất còn nguyên vẹn đi đến vùng đám cháy. – Mẹ đừng đi
xa hơn nữa! Bob nói khi Fiona vừa đặt chân xuống đất. Jack vội vàng chạy đến
bên Meggie nắm lấy tay em gái mình. Hai cặp mắt màu nâu đều nhìn đi chỗ khác,
không phải không chịu đựng nổi sự kinh hãi và lo âu mà chính vì đã biết chắc
chuyện gì đã xảy ra. Fiona và Meggie đã hiểu. – Có phải ba không! – Fiona hỏi
trong hơi thở. – Thưa phải. Và cả Stuart nữa. Không một người con nào có đủ can
đảm để nhìn mặt mẹ lúc ấy. – Stuart? Stuart? Chuyện gì xảy ra với Stuart? Trời
ơi! Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao lại cả hai. Không thể nào như thế được. Không!
Không! – Ba bị kẹt giữa đám cháy. Ba đã chết. Còn Stuart có lẽ đã làm gì đó khiến
cho con heo rừng tấn công nó. Nó đã bắn chết con vật nhưng con vật đã ngã đè
lên Stuart khiến cho nó bị nghẹt thở, Stuart cũng đã chết rồi, thưa mẹ. Meggie
hét lên, vùng vẫy, cố vuột ra khỏi sự kìm giữa của Jack, nhưng Fiona thì đứng bất
động trong vòng tay dơ bẩn, vấy máu của Bob. Bà như bức tượng đá với đôi mắt trống
vắng. – Quá sức chịu đựng – bà nói rồi quay qua nhìn Bob (nước mắt chảy trên mặt
bà, nhỏ giọt xuống tóc bết dính vào cổ). Hãy để mẹ yên. Mẹ cần phải nhìn mặt ba
con, Bob. Một người là chồng của mẹ, một người là con của mẹ. Con không thể cản
ngăn mẹ. Con không có quyền. Meggie đã dịu cơn xúc động và đứng yên trong vòng
tay của Jack, đầu áp vào ngực anh. Fiona bắt đầu đi chậm lại, Bob đi bên cạnh đỡ
mẹ, Meggie im lặng nhìn, không có một động tác nào tỏ
ý
đi theo. Hughie xuất hiện sau màn mưa vốn làm mờ nhạt cả người lẫn cảnh vật. Ra
dấu bằng đầu Jack có ý bảo Hughie nhìn về hướng mẹ và Bob. – Em hãy đi theo mẹ
và anh Bob, và hãy ở lại bên cạnh hai người. Meggie và anh quay lại Drogheda để
tìm phương tiện đưa ba và Stuart về (cậu ta buông Meggie và giúp em gái leo lên
lưng ngựa). Đi Meggie. Trời bắt đầu tối. Chúng mình không thể để mọi người ở lại
đây suốt đêm. Mẹ và các anh sẽ không rời khỏi nơi đây nếu chúng mình chưa trở lại.
Ở vùng bùn lầy này, không có một loại xe có bánh nào có thể vào được; cuối cùng
Jack và ông già Tom đã nghĩ ra cách dùng một tấm tôn dợn sóng cột bằng dây xích
vào hai con ngựa kéo xe. ông già làm vườn dắt hai con ngựa, còn Jack đi trước
soi đường bằng cây đèn bão thật lớn.
CHƯƠNG
17
eggie
ở lại nhà, ngồi trước ánh lửa lò sưởi, có bà Smith bên cạnh chăm sóc và cố thuyết
phục cô ăn một chút gì dằn bụng. Trên gương mặt của bà quản gia, nước mắt ràn rụa
bàng hoàng trước hung tin, còn cô gái im lặng, đau đớn. Sự việc quá sức tưởng tượng
khiến Meggie không khóc được thành tiếng. Có tiếng gõ cửa, Meggie đứng lên
trong lòng thắc mắc không đoán ra được ai có thể băng qua vùng lầy lội đến đây
giữa lúc này, cô cũng kinh ngạc trước sự loan truyền tin tức nhanh chóng từ
trang trại này sang trang trại khác cách nhau rất xa. Cha Ralph đang đứng ngoài
hành lang, mặc quần áo cỡi ngựa, ướt đẫm và lấm đầy bùn. – Tôi vào được không,
bà Smith? – Ồ, thưa cha! Bà Smith kêu lên rồi chạy tới ôm lấy cha Ralph trước sự
ngơ ngác của vị linh mục… Làm sao cha lại hay tin được? – Bà Cleary đã đánh
điện tín cho tôi. Tôi đã được Tổng giám mục Di Contini Verchese cho phép. Tôi
đi tìm máy bay đến đây, suýt nữa lật nhào vì khi đáp xuống đã chạm phải bùn. Nhờ
đó tôi biết được mặt đất ra sao trước khi đặt chân xuống. Gilly xinh đẹp và
thân thương làm sao! Tôi đã để hành lý ở nhà cha Watty, rất may được chủ khách
sạn Imperial cho mượn một con ngựa. Ông ta tưởng tôi đã mất trí và đánh cá với
tôi một chai rượu Johnnie Walker nếu tôi vượt qua được cả vùng bùn lầy lội này.
Nhưng dù cho đám cháy có lớn tới đâu và gây thiệt hại lớn thế nào cũng chưa phải
là tận thế – ông mỉm cười nói, dịu dàng đặt bàn tay lên vai bà Smith – Tôi đã đến
đây và cố hết sức coi có thể giúp được gì và tôi mong được bà cảm thông – Thôi
bà đừng khóc nữa. – Thế thì cha không hay biết gì hết, bà Smith thều thào trong
nước mắt. – Hay biết điều gì? Chuyện gì xảy ra? – Ông Cleary và cậu Stuart đều
chết. Mặt cha Ralph tái đi, đưa tay đẩy nhẹ bà quản lý ra. – Meggie hiện giờ ở
đâu? Cha Ralph gần như hét lên. – Trong phòng khách. Còn bà Cleary hiện đang ở
ngoài bãi chăn với xác của hai người thân. Jack và Tom đã đi mang di hài của họ
về. Trời ơi! Thưa cha có lúc bất kể đức tin ở trong lòng mình, con không thể
không tự hỏi sao Chúa lại tàn nhẫn thế. Tại sao Chúa lại mang đi cả hai người?
Nhưng ngay lúc được biết Meggie đang ở đâu, cha Ralph vứt bỏ tấm vải đầu đi mưa
rồi đi thẳng vào phòng khách, bước chân để lại những vết bùn. M
–
Meggie – ông gọi lớn. Ralph đến cạnh Meggie, quỳ gối xuống bên chiếc ghế bành,
nắm lấy hai tay giá lạnh của Meggie đặt vào lòng bàn tay mình. Meggie để người
tụt xuống thấp dưới ghế, ngã trong vòng tay của cha Ralph, úp mặt vào chiếc sơ
mi ướt đẫm và nhắm mắt lại. Cảm giác hạnh phúc tuyệt vời, Meggie mặc cho sự đau
đớn và xót xa đang xâm chiếm, mơ ước giây phút này trở thành vĩnh cửu. Ralph đã
đến, đó là bằng chứng của quyền lực mà cô vẫn giữ đối với Ralph. Meggie không hề
lầm lẫn. – Cha ướt từ trên xuống dưới, Meggie thân yêu của cha. Con cũng bị ướt
hết cả bây giờ – ông thì thầm, má áp vào mái tóc vàng nâu. – Không hề gì. Cha
đã đến là đủ rồi. – Vâng, cha đã đến. Cha muốn được yên tâm rằng con không phải
trải qua điều gì phiền muộn. Cha linh cảm rằng sự hiện diện của cha sẽ giúp ích
cho con. Cha muốn đích thân tìm hiểu sự việc. Ôi, Meggie, ba của con và Stuart
làm sao thế? Chuyện gì đã xảy ra? – Ba bị kẹt trong đám cháy. Chính Stuart tìm
ra ba nhưng lại bị một con heo rừng húc chết sau khi anh ấy bắn trúng nó. Jack
và bác Tom đã đi đưa thi hài của ba và Stuart về. Cha Ralph im lặng, không biết
làm gì khác hơn là giữ Meggie trong vòng tay mình, ru nhẹ nhàng như ru một đứa
bé cho đến khi hơi ấm của ngọn lửa trong lò sưởi làm khô áo và tóc của ông. Bấy
giờ ông cảm nhận cái thân thể mà ông đang ôm chặt vào lòng mình hình như bớt
căng thẳng, duỗi dần ra trong tư thế thoải mái. Cha Ralph lấy tay đỡ cằm và
nâng đầu Meggie lên buộc cô ta phải nhìn mình và không suy nghĩ gì cả, ôm hôn
Meggie . Đó chỉ là một sự thôi thúc không rõ cội nguồn, hoàn toàn không xuất
phát từ dục vọng, chỉ là một cử chỉ bản năng, một dâng hiến để đáp lại điều mà
ông đã đọc thấy trong ánh mắt màu nâu của Meggie. Có điều gì đó rất đặc biệt như
lần thứ hai ban phép thánh thể. Meggie luồn tay ra phía sau, bấu mạnh vào tấm lưng
gân guốc của cha Ralph, khiến cho ông giật nẩy và kêu lên vì đau. – Sao thế?
Meggie vừa hỏi vừa dang người ra một chút. – Hình như cha bị xây xát ở sườn khi
máy bay đáp xuống, bùn ngập đến thân máy bay, thật hết sức nguy hiểm. Cha không
bị hất tung nhờ va vào lưng dựa của ghế trước. – Cha để con xem nào. Những ngón
tay nhanh nhẹn và dứt khoát của Meggie tháo nút và cởi áo của cha Ralph ra. Dưới
làn da sạm nắng và ướt, một vết đỏ bầm kéo dài từ sườn này đến sườn bên kia.
Meggie lo âu.
–
Trời ơi, Ralph! Cha đã đi ngựa từ Gilly đến đây với vết thương như thế này sao?
Chắc là cha đau lắm? Cha cảm thấy thế nào? Có bị chóng mặt không? Cha có thể bị
xuất huyết bên trong. – Không đâu. Cha không thấy gì lạ trong người. Cha nói thật
mà. Cha quá lo làm sao đến đây sớm để giúp con tránh bớt buồn khổ do đám cháy
gây ra nên cha quên đi cái đau của mình. Nếu cha bị xuất huyết bên trong thì ắt
cha biết. Không có đâu Meggie à. Meggie cúi đầu xuống, môi chạm nhẹ lên vết bầm
đồng thời hai bàn tay đặt lên ngực Ralph, lượt nhẹ từ dưới lên trên, dừng lại
mơn trớn ở hai vai với sự cố tình khêu gợi khiến cho Ralph bàng hoàng. Vừa bị
quyến rũ, vừa sợ hãi, bằng mọi giá cha Ralph muốn thoát khỏi sự mơn trớn, ông
quay người hướng khác, đẩy đầu của Meggie ra xa nhưng cuối cùng chỉ để rơi trọn
vào vòng tay của Meggie, hai cánh tay ấy như những con rắn quấn chặt ý chí của
cha Ralph, bóp chết mọi ý định kháng cự khi vừa mới chớm nở. Thế là quên cả đau
đớn, quên cả Nhà thờ, quên luôn Chúa, Ralph tìm đôi môi của Meggie, sự háo hức
làm cho đôi môi ấy hé mở, khát khao. Ralph ghì chặt Meggie vào lòng nhưng không
làm sao xoa dịu được cơn rạo rực cứ dâng cao mãi. Meggie ngửa cổ ra, phơi trần
hai bờ vai, da mát mịn; Ralph tưởng mình đã chìm nghỉm xuống, càng lúc càng
sâu, nghẹt thở, bất lực. Nhận thức về bản thân con người bình thường và tội lỗi
của mình như đè nặng lên Ralph, một sức nặng có khả năng nghiền nát tâm hồn,
làm vỡ tung những tình cảm bị ngăn chặn lâu ngày, cuốn phăng theo một ngọn triều
không thể nào chống trả nổi. Ralph muốn được khóc; những gì còn lại của sự thèm
muốn cạn đi dưới gánh nặng mà phận làm người đặt lên ông. Ông tháo gỡ hai tay của
Meggie đang quấn chặt cái thân hình đáng thương hại của ông rồi ngồi xổm xuống,
đầu cúi gục, tưởng như đã hết tâm trí nhìn ngắm hai bàn tay run rẩy của mình đặt
trên đầu gối. Meggie ơi, em đã làm gì anh? Và em sẽ làm gì nữa nếu anh cứ để
cho mọi chuyện xảy ra? – Anh yêu em Meggie.Anh mãi mãi yêu em. Nhưng anh là
linh mục, anh không thể… Anh không thể làm thế được chỉ vì như vậy mà thôi.
Meggie đứng phắt lên, sửa lại áo ngay ngắn, nhìn xuống cha Ralph, miêng cười gượng
nhưng vẫn không che giấu được sự đau khổ. Ẩn trong đôi mắt là nỗi thất vọng. –
Ralph, thôi thế cũng được. Con đi xem bà Smith có chuẩn bị gì cho cha ăn không,
rồi con sẽ mang đến cho cha dầu xoa bóp mà người ta dùng cho ngựa. Thứ này chữa
các vết bầm thật tuyệt, nó sẽ làm cho cha hết đau nhức ngay, theo con nghĩ hiệu
nghiệm hơn gấp mấy những nụ hôn. – Điện thoại có dùng được không? Cuối cùng cha
Ralph đã nói ra lời.
–
Được. Một đường dây phụ đã được bắc trên các ngọn cây, mấy giờ qua ở đây đã
liên lạc được với Gilly. Dù sao, cha Ralph cũng cần ít phút để bình tâm và tự
chủ sau khi Meggie rời khỏi phòng khách. ông đến ngồi trước bàn viết của Fiona.
– Xin vui lòng cho tôi đường dây liên tỉnh. Đây là linh mục Ralph de Bricassart
ở Drogheda. Ồ! Allô, Doreen đó à; vẫn trung thành với công việc ở bưu điện. Ồ,
tôi hiểu. Tôi rất vui khi nghe được tiếng nói của chị. Tôi không biết ai đang đảm
trách tổng đài ở Sydney, tôi chỉ nghe một giọng nói lãnh đạm và buồn tẻ. Tôi muốn
liên lạc gấp với Đức Khâm mạng giáo hoàng ở Sydney. Số của Ngài là 20 – 23 –
24. Trong khi chờ Sydney trả lời chị Doreen cho tôi nói chuyện với Bugela nhé.
Ralph vừa báo tin cho Martin King thì Sydney gọi. Nhưng chỉ vài lời với Bugela
là đủ rồi. Cả Gilly sẽ hay tin qua Martin King, kể cả nhiều người khác, trên đường
dây này thường thích nghe lén điện thoại. Như thế tất cả những ai không ngại
bùn lầy đều sẽ có mặt trong đám tang. – Allô, có phải Đức cha đó không? Linh mục
Ralph đây, hiện con ở Drogheda. Ồ! Allô Doreen đừng cúp máy nhé… Vâng, cảm
ơn, con đã đến đây bình yên, nhưng máy bay thì bị ngập bùn đến thân. Có lẽ con
phải trở về bằng tàu hỏa… trong bùn. Thưa Đức cha, bùn… con nói bùn lầy.
Không thưa Đức cha, ở đây không thể đi đâu được nếu mưa to… Từ Gillanbone đến
Drogheda, con phải đi bằng ngựa, đó là phương tiện di chuyển duy nhất có thể sử
dụng trong tình hình thời tiết này… Do đó mà con gọi điện cho Đức cha. Con rất
vui mừng đã đến đây. Con đã có linh tính trước… Vâng, thật khủng khiếp. Vượt
xa những điều con lo sợ. Padraic Cleary và con trai của ông là Stuart đều chết.
Người cha bị chết trong đám cháy, người con thì bị một con heo rừng đè. Một con
heo rừng thưa Đức cha… Con nói một con heo rừng… Vâng, Đức cha nhận xét
đúng, ở đây người ta nói một thứ tiếng Anh rất lạ. Con xin phép Đức cha cho con
được ở lại để dự đám tang và con cam đoan với Đức cha con sẽ lo lắng đầy đủ cho
người vợ đáng thương và các con của bà. Vâng, thưa Đức cha, cảm ơn Đức cha. Con
sẽ trở về Sydney ngay khi mọi việc xong xuôi. Dĩ nhiên có nhân viên tổng đài
cũng nghe được Ralph yêu cầu được nói chuyện với Bugela. ông trao đổi với
Martin King trong ít phút và quyết định lễ mai táng sẽ được tổ chức vào ngày mốt.
Meggie quay trở lại với chai dầu xoa bóp trên tay nhưng không tỏ ý tự mình sẽ
chăm sóc cho cha Ralph. Im lặng trao chai dầu cho ông, Meggie vắn tắt cho cha
Ralph biết là khoảng một tiếng đồng hồ nữa, buổi ăn nóng sẽ được bà Smith dọn
trong phòng ăn nhỏ, như thế cha Ralph có dư
thời
giờ để tắm rửa. Cha buồn bã nhận ra rằng hình như Meggie đã coi như mình bị cha
lừa gạt; nhưng ông không hiểu được tại sao cô lại phản ứng như thế, và căn cứ
vào đâu để kết tội ông như vậy. Meggie vẫn biết ông là linh mục; vậy tại sao có
sự giận dỗi này? Một buổi sáng tinh mơ ảm đạm, đoàn người đưa hai thi hài về đến
bờ bên kia sông và dừng lại ở đó. Dù nước chưa tràn bờ, sông Gillan vẫn dâng
cao và chảy xiết, sâu tới mười mét. Cha Ralph cho con ngựa hồng của mình lội
qua bên kia bờ sông lầy lội để đón đoàn người. ông choàng sẵn khăn lễ và mang
theo đẩy đủ những gì cần thiết của linh mục trong chiếc rúi trên lưng ngựa.
Trong lúc Fiona, Bob, Jack, Hughie và Tom đứng xung quanh, cha Ralph mở tấm vải
quấn hai thi hài và chuẩn bị làm lễ xức dầu. Sau lần chứng kiến cái chết của bà
Mary Carson thì không có một cái chết nào khác có thể làm cho linh mục Ralph
ghê tởm. Cả hai thi hài đều đen, Pađy vì bị chết thiêu, còn Stuart bị nghẹt thở,
Ralph ôm hôn hai thi hài với tình cảm và sự kính trọng. Trên đoạn đường dài 20
cây số, tấm tôm chở thi hài bị xóc lên xóc xuống phía sau hai con ngựa kéo cày
xới trong bùn, in sâu những luống dài có thể nhiều nằm sau vẫn còn thấy. Nó như
vết sẹo mà vào những mùa xuân tới dù cỏ đã mọc đầy lên đó vẫn không che lấp được.
Dòng nước chảy xiết buộc đoàn người dừng lại bên kia bờ mặc dù chỉ còn hai cây
số nữa đến nhà. – Con có một ý kiến, Bob quay qua nói với cha Ralph – Ở đây chỉ
có con ngựa của cha còn khỏe, cha có thể cho ngựa lội trở qua suối, về nhà và
tìm những chiếc thùng rỗng hai trăm lít, cha nhớ đóng kín nắp lại không cho nước
vào. Nếu cần có thể hàn. Chúng ta cần khoảng mười, mười hai cái thùng là đủ.
Cha cho cột lại và mang qua bờ bên này. Chúng ta sẽ dùng những thùng đó để chở
tấm tôn và đẩy nó trở qua bờ như một cái bè. Cha Ralph tán đồng mà không cần đặt
câu hỏi nào khác, ông cũng không có ý kiến nào hay hơn. Dominic O” Rourke cùng
hai con trai tiếp tay cha Ralph thực hiện ý kiến của Bob, rồi chính cha Ralph
và Dominic O” Rourke kéo những chiếc thùng qua con suối. Không có một cành hoa
nào trên hai quan tài, và cũng không có một cành hoa nào trong những chiếc bình
ở nhà nguyện của Drogheda. Những đóa hoa sống sót qua cơn nóng khủng khiếp của
đám cháy đều bị vùi dập dưới cơn mưa, cánh của nó tan tác trong bùn như những
con bướm bị mắc bẫy. Còn mọi người thì mệt mỏi, quá mệt mỏi. Những ai đã vượt
qua một cuộc hành trình dài bằng ngựa trên con đường lầy lội để đến đây nghiêng
mình lần cuối chào vĩnh biệt Pađy đêu mệt mỏi; những ai đã mang các thi hài về
cũng mệt mỏi; đàn ông và đàn bà lo việc bếp núc và rửa dọn cũng mệt mỏi. Cha
Ralph mệt đến đỗi tưởng như mình đi đứng trong giấc mơ, mắt ông
đờ
đẫn nhìn lần lượt gương mặt căng thẳng và tuyệt vọng của Fiona, gương mặt đau
khổ và giận dữ của Meggie và nỗi đau xót của anh em Bob, Jack và Hughie lâu nay
vốn thương yêu gắn bó với nhau. Làm lễ xong, các khách từ xa lại lên ngựa ra
đi, lưng rạp xuống được che bằng những tấm vải đầu; có người chỉ bàn với nhau về
viễn ảnh phá sản có thể xảy đến, những người khác cảm ơn Chúa đã cứu họ thoát
chết và tránh được đám cháy. Cha Ralph gom lại đồ đạc của mình, biết rất rõ là
phải đi ngay trước khi không còn khả năng rứt ra khỏi nơi này. Ông tìm gặp
Fiona đang ngồi trước bàn viết, lặng im mắt nhìn hai bàn taỵ – Bà Fiona có khỏe
không? Cha Ralph hỏi rồi buông mình xuống chiếc ghế bành gần đó. Bà quay lại
nhìn cha Ralph, tan nát và chết cứng trong lòng khiến cha phải sợ và không dám
nhìn thẳng. – Vâng thưa cha, rồi đâu sẽ vào đó. Con phải lo việc sổ sách của
trang trại và năm đứa con còn lại… sáu chứ kể cả Frank. Nhưng đúng là chúng
ta không trông đợi gì ở Frank phải không cha? Con không thể nào nói ra hết sự
biết ơn về những gì cha đã giúp trong chuyện này. Thật là một an ủi lớn cho con
khi biết rằng cha đã theo dõi và lo lắng cho Frank, nhờ thế mà số phận của nó đỡ
khổ phần nào. Trời ơi, con muốn gặp Frank quá, dù chỉ một lần thôi cha ạ. Như một
lửa hải đăng, cha Ralph nghĩ thầm. Fiona như một ngọn hải đăng chiếu ra những
tia sáng khổ đau mỗi khi đầu óc của bà bị xúc động tột độ và dữ dội nhất. – Bà
Fiona, có một việc mà tôi muốn bà phải suy nghĩ. – Vâng, chuyện gì thế thưa
cha? Rồi bà lại đi trong sự trống rỗng. – Bà có nghe tôi nói không? Cha Ralph
lo lắng hỏi lớn tiếng, lòng ông lo sợ hơn bao giờ hết. Một lúc lâu, linh mục tưởng
rằng bà đã thu mình lại đến mức giọng nói cứng rắn của ông cũng không làm bà sực
tỉnh. Nhưng một lần nữa ngọn hải đăng lại phát ra một tia sáng, rồi đôi môi mấp
máy: – Tội nghiệp Pađy của tôi! Tội nghiệp Stuart của tôi! Tội nghiệp Frank của
tôi! Bà nói như rên rỉ. Rồi bà lại bình tĩnh, nép mình sau cái bề ngoài cứng rắn
tưởng như không có điều gì có thể lay chuyển nổi. Đôi mắt bà đảo quanh căn
phòng mà không nhìn ra bất cứ thứ gì. – Vâng, thưa cha, con đang nghe đây, bà
nói. – Này, Fiona, còn cô con gái của bà nữa chứ? Bà quên rằng bà có một đứa
con gái sao?
Đôi
mắt nâu nhìn lên về hướng cha Ralph một lúc, gần như thương hại. – Làm sao một
người đàn bà lại có thể quên con gái của mình? Nhưng một đứa con gái là gì? Chỉ
là sự nhắc nhở của một niềm đau chịu đựng lâu dài, một hình bóng trẻ trung hơn
của chính mình, sẽ lặp lại tất cả những hành động mà mình đã trải qua, rồi cũng
sẽ khóc những giọt nước mắt mà mình đã khóc. Không thưa cha, con đã cố quên đi
rằng con có một đứa con gái. Nếu con nhớ đến nó thì con sẽ coi nó cũng như một
trong những đứa con trai của con. Người mẹ thường nhớ đến những đứa con trai. –
Bà đã khóc lần nào chưa, bà Fionạ Tôi chỉ thấy bà khóc chỉ mỗi một lần. – Cha sẽ
không bao giờ thấy như thế nữa, thưa cha. Nước mắt trong con đã cạn (toàn thân
bà run lên) cha có biết không, cách đây hai ngày, con đã nhận ra rằng con yêu
Pađy biết chừng nào, nhưng cũng như mọi chuyện trong đời con, nó đến quá muộn
màng. Quá muộn cho anh ấy, quá muộn cho con. Cha có biết không, con rất muốn được
ôm anh ấy trong đôi tay nói với anh ấy rằng “em yêu anh”. Trời ơi! Con mong rằng
không một ai sẽ phải chịu đựng nỗi đau đớn như thế này. Cha Ralph quay mặt nơi
khác để khỏi nhìn thấy vẻ đau thương ấy và để Fiona có thời gian lấy lại bình
tĩnh, còn ông thì có thể hiểu sâu hơn một con người bí ẩn. – Không, ông nói,
không người nào có thể trải qua và cảm nhận được nỗi đau của bà, mỗi người có một
nỗi đau riêng. Fiona nhếch miệng cười buồn bã. – Vâng, đó cũng là một an ủi, phải
không thưa cha? Nỗi đau đớn không phải là điều nên ước ao nhưng dù sao nỗi đau
đớn ấy cũng là của riêng con. – Tôi mong bà hứa với tôi một điều, bà Fiona. –
Con sẽ nghe lời cha. – Bà hãy chăm sóc Meggia. Đừng quên điều đó. Hãy buộc
Meggie tham dự các buổi khiêu vũ trong vùng; gặp gỡ các chàng trai trẻ, thúc đẩy
Meggie nghĩ đến chuyện lấy chồng, xây dựng riêng một tổ ấm. Tôi nhận thấy tất cả
những thanh niên con của các trại chủ quanh vùng này đến đây dự đám tang đều
say đắm nhìn Meggie. Nên tạo thêm cơ hội cho Meggie gặp các thanh niên ấy trong
một hoàn cảnh ít nặng nề hơn. – Xin theo ý cha. Linh mục Ralph thở dài rồi bước
ra, một mình Fiona vẫn ngồi yên nhìn hai bàn tay gầy guộc và trắng xanh nhưng
hình như bà chẳng thấy gì cả.
Meggie
tiễn cha Ralph ra đến chuồng ngựa, nơi đây con ngựa thiến của ông chủ khách sạn
Imperial cho mượn đang ăn cỏ khô với lúa mạch. Cha Ralph quẳng chiếc yên cũ lên
lưng con vật và cúi xuống siết chặt lại đai bụng ngựa, trong khi Meggie đứng dựa
vào một bao cỏ khô theo dõi cha. – Cha nhìn xem, con vừa tìm được cái gì nè, vừa
nói Meggie vừa trao cho Ralph một bông hồng màu tro nhạt đúng lúc cha Ralph thẳng
đứng lên. Đây là bông hồng duy nhất con đã tìm thấy trong một bụi cây, dưới những
hồ chứa nước sau nhà. Nó đã sống sót qua cơn nóng của đám cháy và được che chở
không bị vùi dập dưới cơn mưa. Con đã hái hoa này tặng cha, hãy giữ như một kỷ
niệm về con. Ông cầm lấy bông hồng vừa hé nở tay run run thiếu tự tin và nhìn
cành hoa. – Meggie, ta không cần vật kỷ niệm của con, bây giờ và mãi mãi về sau
này. Ta mang trong ta con người trọn vẹn của con, chính con thừa biết điều đó.
Ta không thể giấu diếm tình cảm ấy được, phải không Meggie? – Nhưng đôi khi
cũng cần có một thực tế kỷ niệm để có thể sờ mó nó – Meggie quyết bảo vệ ý kiến
của mình. Người ta có thể nhìn ngắm và nhớ lại những gì có thể quên đi nếu kỷ
niệm đó không ở trước mặt. Con van cha, hãy cầm lấy… – Meggie hãy gọi ta bằng
tên, Ralph – ông nói. Ông cúi xuống mở chiếc vali nhỏ, trong đó đựng các thứ cần
thiết để làm lễ và lấy ra cuốn kinh thánh có bìa khảm xà cừ đắt tiền, một vật sở
hữu của ông. Thân sinh đã mất của Ralph đã tặng cho ông cuốn sách này ngày ông
được thụ phong linh mục cách đây mười ba năm. Ông mở cuốn kinh thánh, nơi đước
đánh dấu bằng một rubăng màu trắng rộng khổ, lật qua vài trang, đặt chiếc bông
hồng trong đó và đóng sách lại. – Có phải Meggie muốn ta để lại cho con một kỷ
niệm phải không? Đúng như thế chứ? – Vâng. – Ta sẽ không để lại cho Meggie điều
gì cả. Ta muốn Meggie hãy nhìn quanh và chọn cho mình một chàng trai nhân hậu,
đàng hoàng, để sau này trở thành chồng của con, rồi sinh con cái, điều mà
Meggie rất tha thiết. Meggie sinh ra để làm mẹ, chẳng phải đó là mơ ước của con
sao? Ta không thể từ bỏ Nhà thờ vì ta đã không thể yêu con như một người chồng,
vì ta đã… Meggie có hiểu ta không? Quên ta đi, Meggie ạ! – Thế cha không hôn
con trước khi cha giã từ sao?
Thay
cho câu trả lời, Ralph leo lên ngựa đi thẳng ra cửa trước khi đặt lên đầu chiếc
nón phớt cũ kỹ mà người chủ ngựa cũng đã cho mượn. Trong một thoáng, đôi mắt
xanh của Ralph loé sáng lên; dưới cơn mưa, con ngựa bước trầy trật trên con đường
bùn lầy dẫn đến Gilly. Meggie không biết làm gì hơn là nhìn theo nhưng vẫn đứng
đó trong bóng tối của chuồng ngựa ẩm ướt. Mùi phân ngựa và cỏ khô làm Meggie nhớ
lại cái nhà kho ở Tân Tây Lan và Frank.
CHƯƠNG
18
Ba
mươi tiếng đồng hồ sau khi rời Drogheda, cha Ralph đã có mặt trong phòng của Đức
Khâm mạng. Ông đi ngang qua căn phòng rộng lớn, đến hôn chiếc nhẫn người cha
linh hồn của mình, rồi buông mình xuống ghế bành một cách mệt mỏi. Chỉ khi cảm
thấy đôi mắt đẹp và thông suốt đang nhìn thẳng vào mình, cha Ralph mới nhận ra
cách ăn mặc không bình thường của ông, và hiểu ra tại sao có nhiều người đã
nhìn mình chăm chăm từ khi ông mới bước xuống nhà ga Trung ương. Bỏ quên chiếc
vali gởi ở nhà xứ Gilly, cha Ralph nhảy lên tàu hỏa chuyến tốc hành chỉ trước
giờ chạy hai phút. Ông đã trải qua một ngàn cây số trên toa tàu lạnh giá mà chỉ
mặc một chiếc áo sơ mi, quần cỡi ngựa và giày bốt, tất cả ướt đẫm mà không hay
biết. Cha Ralph nhìn lại quần áo của mình, cười buồn rồi nhìn về hướng Tổng
giám mục. – Xin Đức cha tha lỗi. Có quá nhiều biến cố xảy ra đến nỗi con quên mất
cách ăn mặc dị hợm của mình. – Con khỏi phải xin lỗi, Ralph (khác hơn người tiền
nhiệm, ông thích gọi thư ký riêng của mình bằng tên). Trông con có vẻ rất lãng
mạng, đỏm dáng nữa là khác, dù con có vẻ mệt mỏi. Tuy nhiên, như thế có phần
nào thế tục hơn phải không? – Về phương diện tục thế, con hoàn toàn đồng ý. Nhưng
về phương diện lãng mạn và đỏm dáng, thưa Đức cha, có lẽ vì Đức cha chưa bao giờ
thấy cách ăn mặc thông thường của con ở Gillanbone. – Ralph rất thân mến của
ta, dù cho con nảy ra ý định dùng bao đựng than để làm quần áo mặc, con cũng sẽ
không mất đi chút nào vẻ lãng mạn và đỏm dáng! Bộ quần áo cỡi ngựa rất hợp với
con, đúng là rất hợp. Cũng như với chiếc áo dòng, con đừng bận tâm để chứng
minh rằng con không thấy bộ quần áo đó hợp với con hơn là bộ đồ vét đen. Con có
một dáng đi rất lạ và đặc biệt thu hút. Con giữ được một thân hình cường tráng.
Cha tin rằng con sẽ giữ được như thế mãi mãi. Cha cũng nghĩ rằng, khi cha được
gọi về La Mã, cha sẽ mang con theo. Cha rất tò mò xem coi con sẽ gây ấn tượng
ra sao với các giáo sĩ người àbụng to và chân ngắn ngủn. Đúng là một con mèo
thon thả đẹp giữa những con bồ câu mập và ngơ ngác. La Mã! Cha Ralph giật nẩy
người. – Chuyện xảy ra có đau đớn không, Ralph? Tổng giám mục vừa hỏi vừa đưa
bàn tay đeo nhẫn vuốt ve chiếc lưng mượt mà của con mèo Abyssinian dang nằm kêu
gừ gừ trên đầu gối của ông. – Khủng khiếp lắm thưa Đức cha.
–
Con dành rất nhiều tình cảm cho gia đình đó? – Thưa vâng. – Con có yêu thương mọi
người trong gia đình ấy như nhau hay với một số người, con yêu nhiều hơn những
người khác? Nhưng cha Ralph cũng quỷ quyệt không kém bề trên của mình. Thời
gian phục vụ khá lâu dưới quyền ông đủ để cho cha Ralph hiểu thấu cách suy nghĩ
của Tổng giám mục. Cha Ralph phá vỡ cái bẫy giăng ra bằng một thái độ thẳng thắn
giả tạo, nhưng đủ sức làm tiêu tan mọi nghi ngờ ở Tổng giám mục. Đầu óc tinh tế
và lắt léo ấy lại không nghĩ ra rằng một sự thẳng thắn bề ngoài nó dối trá gấp
mấy lần so với sự chối quanh né tránh. – Con yêu thương mọi thành viên trong
gia đình đó nhưng như Đức cha đã nói, với một số người, con có yêu thương nhiều
hơn. Chẳng hạn Meggie, cô con gái mà con yêu thương nhất. Con luôn cảm thấy có
trách nhiệm riêng với cô con gái vì gia đình gồm toàn con trai và quên đi sự có
mặt của đứa con gái. – Cô gái Meggie đó bao nhiêu tuổi? – Con không biết chính
xác. Ồ! Có lẽ khoảng hai mươi tuổi, hình như thế. Nhưng con có yêu cầu bà mẹ hứa
sẽ bớt đi công việc sổ sách kết toán để con gái của bà có điều kiện tham dự vào
những cuộc khiêu vũ trong vùng, có cơ hội gặp nhiều chàng trai cùng lứa tuổi. Nếu
không cuộc đời cô ta sẽ hỏng mất vì bị giam hãm ở Drogheda như thế quả là tai hại.
Cha Ralph chỉ nói toàn sự thật. Với sự tinh ý nhạy bén đặc biết, Tổng giám mục
nhận ra ngay, mặc dù ông chỉ hơn người thư ký riêng của mình ba tuổi. Con đường
công danh của ông ở tòa thánh không phải chịu những thăng trầm như linh mục
Ralph, nhưng dưới nhiều góc cạnh, ông cảm thấy mình già hơn gấp bội người dưới
quyền. Cha Ralph sẽ không bao giờ già như thế. Vatican đã hủy hoại quá sớm sức
sống ở người mà tòa thánh đã chiếm hữu, còn Ralph thì vẫn còn tràn trề sinh lực.
Bớt đi phần nào sự cảnh giác, Tổng giám mục vẫn tiếp tục quan sát người thư ký
riêng của mình và trở lại cuộc chơi hấp dẫn để bằng mọi cách tìm cho ra chính
xác động cơ ở Ralph là gì. Lúc đầu, Tổng giám mục tin chắc rằng ở con người này
có sự yếu đuối về xác thịt, bằng cách này hay cách khác. Cái đẹp lạ lùng ở gương
mặt, kể cả thân hình chắc chắn gợi lên biết bao thèm muốn, đến đỗi cha Ralph
không thể nào không biết đến. Nhưng với thời gian, Đức cha dã thấy ra rằng cảm
tưởng ban đầu của mình chỉ đúng một nửa: đúng là cha Ralph cũng cảm nhận được sức
quyến rũ của mình nhưng điều đó gắn liền với sự hồn nhiên không thể chối cãi.
Dù ngọn lửa
đang
cháy bỏng trong con người cha Ralph là gì đi nữa, thì điều chắc chắn, đó không
phải là vấn đề xác thịt. Tổng giám mục đã sắp xếp cho linh mục Ralph gần gũi với
những người đồng tình luyến ái cao tay, biết cách thu hút những ai có chút
khuynh hướng đồi bại này nhưng kết cuộc chẳng có kết quả nào. Ngài cũng theo
dõi linh mục Ralph khi ông ở bên cạnh những người phụ nữ đẹp nhất nước nhưng
cũng chẳng có kết quả. Một thoáng chú ý cũng không có, sự thèm muốn trong ánh mắt
cũng không dù cho ông không hay biết mình được chú ý. Vâng, Tổng giám mục cũng
có lúc dùng những người dưới tay để theo dõi và báo cáo lại một cách trung thực.
Thế là Đức cha bắt đầu tin rằng chỗ yếu của linh mục Ralph nằm trong sự tự kiêu
mình là linh mục và trong chính tham vọng của ông, đó là hai mặt của một nhân
cách mà thật ra không xa lạ đối với Đức cha vì chính trong bản thân ngài cũng
tìm thấy những mặt ấy. Nhà thờ không thiếu địa vị dành cho những kẻ tham vọng
và cũng như những định chế có tầm cỡ, nó luôn luôn dựa vào những con người
trung kiên và tham vọng như thế để trường tồn. Dư luận ngoài đời đồn rằng linh
mục Ralph đã sang đoạt tài sản mà gia đình Cleary đáng lẽ được thừa kế; mỉa mai
thay đó lại là gia đình mà linh mục nói với mọi người rằng mình yêu thương. Cứ
cho đó là sự thật thì càng phải sử dụng linh mục Ralph. Đôi mắt xanh đẹp tuyệt ấy
đã sáng lên làm sao khi nghe nhắc tới La Mã! Có lẽ đã đến lúc thử một bước đi
chiến lược mới. Tổng giám mục làm ra vẻ lơ đễnh đi một nước cờ trong cuộc đối
thoại với linh mục Ralph, nhưng thật ra dưới đôi mi nửa khép nửa mở, ông vẫn
quan sát rất chăm chú: – Cha đã nhận được tin tức từ Vatican trong khi con đi vắng,
Ralph ạ. Tổng giám mục vừa nói vừa đặt nhẹ con mèo qua một bên. Sheba bé nhỏ của
ta, con ích kỷ quá. Con làm cho hai chân ta tê cứng. – Chuyện gì thế thưa Đức
cha? Linh mục Ralph ngả người vào ghế bành để nhìn rõ hơn Tổng giám mục, đồng
thời ông cố giữ cho hai mí mắt không sụp xuống vì quá mệt mỏi sau một cuộc hành
trình dài. – Vâng, con có thể đi ngủ nhưng trước đó con cần nghe những tin tức
này đã. Cách đây không lâu, cha có gởi một mật thư riêng cho Đức Thánh cha và ngay
sáng hôm nay, cha đã nhận được trả lời của Ngài qua người đại diện là Đức Hồng
Y Monteverdi, một người bạn của cha. Cha vẫn tự hỏi phải chăng Monteverdi thuộc
dòng dõi nhà soạn nhạc thời Phục Hưng. Không hiểu sao, cha cứ quên mãi không hỏi
điều đó khi gặp Ngài. Ồ! Sheba, tại sao con cứ đưa vuốt ra mỗi khi con cảm thấy
ưa thích?
–
Con đang nghe đây thưa Đức cha. Con chưa buồn ngủ đâu, cha Ralph cười nói. Đức
cha yêu mèo là điều không có gì ngạc nhiên. Đức cha không khác con mèo, thích
kéo dài sự vui sướng khi vờn con mồi. Sheba xinh đẹp hãy lại đây, đừng theo con
người ác độc ấy, hãy lại đây với ta. Con mèo cái lập tức rời khỏi bộ áo tím của
Tổng giám mục và nhảy lên đùi linh mục, nó nằm rạp người xuống, đuôi ngoe nguẩy,
vừa hít mạnh để đánh hơi, có vẻ như thích mùi ngựa và mùi bùn trên người của
linh mục Ralph. Đôi mắt xanh lanh lợi của cha Ralph nhìn thẳng vào mắt Tổng
giám mục; hai mí mắt nửa nhắm nửa mở, cả hai đều rất tỉnh táo. – Làm thế nào mà
cha lập được thành tích như thế? Tổng giám mục hỏi. Sheba chẳng bao giờ tuân
theo lời của bất cứ ai, thế mà nó chạy ngay lại cha như thể được mời ăn trứng
cá caviar hay một thứ cao lương mỹ vị nào đó. Đồ bội bạc! – Con vẫn chờ nghe Đức
cha nói tiếp. – Có phải bực bội vì bị chờ đợi nên con đã trả thù bằng cách đoạt
con mèo cái của cha? Thôi, con đã thắng cuộc, xin thua. Mà này, có bao giờ con
nếm mùi thất bại chưa? Một câu hỏi thú vị đấy, Ralph thân mến. Còn bây giờ cha
xin có lời chúc mừng. Kể từ nay con phải đội mũ lễ, mặc áo choàng lễ và người
ta phải gọi con bằng Đức cha, giám mục De Bricassart. Tổng giám mục thích thú
nhìn đôi mắt của Ralph mở ra thật lớn. Lần đầu tiên, linh mục Ralph không tìm
cách giả vờ hay che dấu những tình cảm thật của mình. ông ta rạng rỡ lên một
cách tự nhiên.
CHƯƠNG
19
Đất
đỏ nhanh chóng tìm lại sức sống một cách kinh ngạc. Chỉ trong một tuần, những mầm
xanh nhú lên xuyên qua lớp bùn nhầy nhụa và trong hai tháng, những chiếc lá non
đã xuất hiện trên các cành cây bị cháy đen. Con người đã chứng tỏ được sự chịu
đựng và sức quật khởi của mình. Ai thiếu kiên nhẫn sẽ không thể ở lại trên vùng
đất tây bắc bao la này. Nhưng phải chờ nhiều năm, các vết thương do đám cháy
kinh khủng gây ra mới xóa hết. Drogheda mất ít nhất một phần năm đất khai thác,
thiệt hại hai mươi lăm ngàn con cừu. Thật ra đây là một thiệt hại chẳng là bao
vì vào những năm thuận lợi, đàn cừu lên đến khoảng một trăm hai mươi lăm ngàn
con. Tuy nhiên khi nhìn các khu vườn của Drogheda, vào mùa xuân vẫn trơ trọi và
cháy đen, lòng ai cũng đau nhói. Dân chúng ở đây có thể sống sót trong cơn hạn
hán nhờ những bồn chứa nước của Michael Carson nhưng ngược lại không có thứ gì
để đối đầu với lửa. Dây đậu tía không làm sao nở hoa. Những cây hoa hồng bị còi
chỉ còn lại những gai và gai, hoa pensé cũng chết, các loại cây nhỏ khác thì không
khác những cọng rơm vàng úa; ở những nơi có bóng mát, các cây vẫn rạp mình xuống
một cách thảm hại, không còn hy vọng hồi sinh. Bob quyết định noi theo con đường
của cha, tăng cường thêm lực lượng để trang trại đạt được hiệu quả cao nhất, do
đó anh thu nhận thêm ba người chuyên về chăn nuôi. Bà Mary Carson khi còn sống
không chịu ghi vào sổ lương danh sách những công nhân làm vài ngày mà chỉ ghi
tên các thanh niên của gia đình Cleary; còn vào những lúc bận rộn cừu đẻ và cắt
lông, bà chỉ dùng công nhân tạm thời, nhưng Pađy, cha của Bob, thì suy nghĩ và
làm khác, ông nghĩ rằng nếu những người làm công có thể đặt tin tưởng và một
nơi chốn nhất định để lập nghiệp, họ sẽ làm việc tốt hơn. Nhưng cuối cùng, kết
quả không khác nhau bao nhiêu. Phần đông những người chăn nuôi mướn mắc cái bệnh
không thể ở yên một chỗ. Fiona thay chồng đảm trách việc quan hệ thư từ với Đức
cha Ralph, và trung thành với tính tình của mình, bà không bao giờ tiết lộ với
bất cứ ai nội dung thư từ, ngoại trừ duy nhất vấn đề quản lý trang trại. Meggie
rất thèm muốn đoạt lấy những thư ấy và đọc cho đỡ nhớ nhung nhưng Fiona không để
cho con gái mình có những cơ hội như thế. Bà bỏ tất cả thư vào một tủ sắt nhỏ
ngay khi con gái bà hay tin có thư mới đến. Sau khi Đức cha Ralph rời khỏi
Drogheda, bà Fiona quên ngay lời hứa của mình với linh mục. Trong vài lần được
mời dự khiêu vũ và tiếp tân, Meggie đều từ chối. Được biết việc này, Fiona vẫn
giữ nguyên thái độ xưa kia, không hề thúc đẩy con gái chấm dứt cuộc sống đơn độc
và buồn tẻ.
Liam
O” Rourke lợi dụng mọi cơ hội để tạt ngang qua Drogheda bằng xe hơi. Enoche
Davie điện thoại thường xuyên, Conner Carmichael và Alastair Mac Queen cũng thế.
Nhưng đối với mỗi người, Meggie đều tỏ ra xa lạ, khô khan, đến đỗi tất cả đều
thấy mình hoàn toàn không hy vọng.
CHƯƠNG
20
Chuông
điện thoại reo lên, hai tiếng dài một tiếng ngắn, tín hiệu dành riêng cho
Drogheda, Fiona nhắc ống nghe và quay lại. – Điện thoại của Bob. – Allô… à!
Jimmy đó phải không… Vâng, Bob đây… Vâng đồng ý. Thế thì hay lắm. Có giấy
chứng nhận tốt không? Cứ gởi hắn đến đây… Nếu đúng là anh ta giỏi như thế, bạn
có thể nói thẳng với hắn rằng đã có một chỗ làm dành sẵn ở đây. Tôi không tin lắm
ở những tờ giấy chứng nhận… Thôi nhé. Cảm ơn. Chào. Bob trở lại ghế ngồi. –
Chuyện liên quan đến một anh thợ chăn nuôi, một anh chàng khá lắm theo con nhận
xét của Jimmy. Anh ta đã từng làm việc ở đồng bằng Queensland phía tây gần
Longreach và Charleville. Anh ta chăn bò cũng rất giỏi. Đây là một tay cưỡi ngựa
xuất sắc, có tài luyện ngựa. Trước kia anh ta là thợ cắt lông cừu, cũng là một
tay cự phách trong nghề này theo lời Jimmy. Hai trăm năm chục con trong một
ngày! Con chỉ hơi ngạc nhiên tại sao một nhà vô địch như thế lại bằng lòng với
đồng lương của một người chăn cừu? Rất hiếm trường hợp một tay cắt lông cừu giỏi
như thế lại bỏ tông đơ để ngồi lên mình ngựa. Dù thế nào thì đó là một anh
chàng mà ta đang cần ở các bãi chăn, phải không mẹ? Với năm tháng, giọng nói của
Bob kéo dài ra như giọng đặc biệt của người Úc nhưng ngược lại anh nói từng câu
rất ngắn. Anh sắp sửa bước vào cái tuổi ba mươi nhưng hình như không có khả
năng chinh phục các cô gái mà anh được gặp trong các cuộc tiếp tân rất hiếm được
tổ chức. Một mặt anh rất nhút nhát, một mặt khác anh không thích chú ý gì hơn
là đất đai và chăn nuôi. Jack và Hughie càng ngày càng giống anh mình. Cả ba
cũng thích nằm trên sàn, sợ rằng nằm trên giường sẽ làm cho họ mềm yếu đi. –
Anh thợ mới mà con nói đã có gia đình chưa? Fiona hỏi nhưng vẫn tiếp tục công
việc sổ sách của mình. – Con không biết. Con quên hỏi. Ngày mai mình sẽ biết
ngay khi anh ta đến đây. – Hắn đến đây bằng cách nào? – Jimmy đưa anh ta đến bằng
xe hơi. Anh ta muốn nhìn qua các con cừu già ở Tankstand. – Mong rằng hắn sẽ ở
lại đây một thời gian. Nếu hắn chưa có vợ, mẹ đoán hắn sẽ lại ra đi trong vài tuần
– Fiona nói – Những anh làm công kiểu đó không ở lại lâu đâu.
Jims
và Patsy đang theo học nội trú tại Riverview nhưng nhất quyết sẽ không ở lại trường
thêm một ngày nào nữa khi cả hai được mười bốn tuổi. Cả hai náo nức chờ cái
ngày được đi theo Bob, Jack và Hughie ở ngoài bãi chăn. Nhiều tuần đã trôi qua
khi lần đầu Meggie chạm mặt với tay thợ chăn nuôi mới đến làm. Tên anh ta là
Luke O” Neill. Anh thường đến ngôi nhà lớn trò chuyện. Luke từ chối không ngủ
trong lán trại dành cho những người độc thân, anh chọn căn nhà nhỏ trống còn lại
bên suối để ở. Ngay khi vừa được giới thiệu với bà Smith, Luke đã giành được cảm
tình của bà quản gia rất ít khi chú ý đến hạng người ở thuê làm mướn. Con người
mới đến này gây nhiều tò mò cho Meggie trước khi nàng gặp mặt trực tiếp. Con ngựa
hồng và con ngựa cái của Meggie được nhốt trong chuồng chứ không thả ngoài bãi
quay ngựa nữa. Do đó Meggie thường bắt đầu ngày làm việc của mình trễ hơn nhóm
đàn ông vì vậy có khi trong nhiều tuần lễ liền Meggie không chạm mắt mấy người
thợ. Nhưng cuối cùng thì nàng chạm mặt với Luke vào một buổi xế chiều mùa hè,
lúc mặt trời đã xuống thấp làm đỏ rực các hàng cây, kéo dài thườn thượt những
cái bóng, trước khi lùi dần vào sự quên lãng của màn đêm. Meggie từ Borehead trở
về và đi ngược chầm chậm đến chỗ băng qua con suối, cùng lúc đó Luke từ hướng
đông nam về cũng đi đến. Ánh mặt trời chiếu thẳng vào mắt Luke, nàng nhìn thấy
anh ta trước khi anh ta thấy nàng. Luke cỡi một con ngựa hồng cao lớn, hung dữ,
bờm và đuôi màu đen. Khác hơn các đồng nghiệp của mình, Luke mặc áo sơ mi trắng
và quần màu nhạt. Lịch sự làm sao! Meggie nói thầm. Như thế cũng tốt nếu anh ta
không sợ mất công giặt ủi. – Chào bà chủ! Anh ta nói lớn khi ngựa tiến lên
ngang với nàng. Anh ta chào Meggie bằng cách giở mũ ra rồi để trở xuống hơi ngửa
ra phía sau. Đôi mắt xanh có vẻ không coi ai ra gì, nhìn nàng không giấu giếm sự
ngưỡng mộ – Xin lỗi, cô chắc chắn không phải là bà chủ, có lẽ con gái của bà.
Anh ta nhận xét. Tôi tên là Luke O” Neill. Meggie ấp úng vài tiếng gì đó không
rõ, né tránh không nhìn thẳng anh ta, lòng bối rối và cử chỉ thiếu tự nhiên,
không làm sao tìm ra một câu chào hỏi thông thường thích hợp cho hoàn cảnh. Ồ,
thật là phi lý? Tại sao lại có một con ngựa liều lĩnh có đôi mắt và nét mặt giống
linh mục Ralph đến thế. Cái giống ấy không ẩn chứa trong cách nhìn Meggie; sự
vui tính thấy rõ trong bản chất con người của anh ta và cái nhìn ấy không hề để
lộ một tình yêu cháy bỏng dành cho nàng. Ngược lại ngay ở cái giây phút đầu
nàng gặp cha Ralph, cô bé Meggie đã bắt gặp tình yêu trong
đôi
mắt của linh mục. Làm thế nào nhìn Luke mà không thấy đôi mắt của Ralph và
tránh được không nhớ đến Ralph. Một trò đùa ác độc, một sự trừng phạt. Hoàn
toàn không ý thức về những suy nghĩ mà anh đã gợi lên trong đầu của Meggie,
Luke giữ cho con ngựa hồng khó dạy của mình ngang với con ngựa cái bình thản của
Meggie, cả hai đang băng qua suối, nước chảy rất dữ sau những trận mưa lớn.
Không thể nghi ngờ, Meggie đã trở thành một thiếu nữ tuyệt đẹp. Mái tóc của
nàng cũng đẹp làm sao! Phải chi nàng chịu ngước mặt lên cho anh ta có thể ngắm
trọn vẹn gương mặt! Nhưng đúng cái lúc Meggie quyết định làm điều đó thì sự biểu
lộ trên gương mặt đã buộc Luke phải nhíu mày lại vì sửng sốt. Không hẳn Meggie
đã nhìn Luke như có hận thù nhưng cái nhìn ấy như muốn tìm kiếm điều gì đó còn
tiềm ẩn hoặc là một nét nào đó mà Meggie không muốn bắt gặp ở Ralph. Meggie bối
rối, còn Luke thì chưa quen bị phụ nữ nhìn soi mói trong thế bị động. Mái tóc
màu vàng hơi hung của Meggie sáng rực dưới màu trời đỏ ửng của hoàng hôn cùng
đôi mắt nâu như một cái bẫy chực chờ Luke tự ý lao vào. Anh theo dõi thích thú
với phản ứng bực dọc và thất vọng của Meggie. Rồi anh bình tĩnh tiếp tục quan
sát: cái miệng như đóa hoa hé nở, những hạt mồ hôi động lại ở môi như những hạt
sương mai, trên trán cũng có những giọt mồ hôi như thế vì trời nóng, lông nheo
cong lên vì ngạc nhiên. Nụ cười của Luke để lộ những chiếc răng to khỏe của
linh mục Ralph; nhưng nụ cười ấy lại không phải cha Ralph. – Cô có biết không,
cô có một cái nhìn ngơ ngác hồn nhiên của một đứa trẻ. Miệng tròn như chữ O và
cả chữ A. – Tôi xin lỗi ông – Meggie nói mắt nhìn nơi khác. Tôi không cố tình
soi mói ông. Ông làm cho tôi nhớ đến một người, có thế thôi. – Cô nhìn tôi tùy
thích. Còn hơn là tôi chỉ được nhìn cái đỉnh đầu của cô dù cho nó đẹp đến đâu.
Tôi gợi cho cô nhớ đến ai? – Điều đó không quan trọng. Tuy nhiên thật là quái lạ
khi nhìn gặp một người lần đầu tiên lại cảm thấy rất quen thuộc… Nhưng thật
ra lại rất khác với người đó. – Cô tên gì, cô bé gái Cleary? – Meggie. –
Meggie… Một cái tên không phù hợp với cô chút nào. Tôi thích cô mang tên
Belinda hay Madeline hơn, nhưng nếu Meggie đúng là cái tên không thể nào khác
hơn nữa của cô thì đành bằng lòng với Meggie vậy. Tên gọi thân mật là gì?…
–
Không, Meghann. – Ừ, nghe thích hơn! Vậy tôi gọi cô là Meghann. – Không, không
có chuyện đó được! Meggie phản ứng lại. Tôi rất ghét cái tên ấy. Luke cười: –
Cô được nuông chiều quá và quen được mọi người thỏa mãn các ý thích bất thường,
cô bé Meggie ạ. Nhưng với tôi, nếu tôi thích gọi cô là Eustacia Sophronia
Augusta thì không ai có thể cấm cản tôi, cô có biết không? Cả hai vừa đến bãi
thả ngựa. Luke buông ngựa xuống đất nhẹ nhàng, đưa tay đấm nhẹ vào đầu con ngựa
đang nhe răng muốn cắn anh ta, con vật quay đi chỗ khác, ngoan ngoãn. Đứng dưới
đất, anh ta đưa tay ra chờ để đỡ Meggie xuống. Nhưng không, Meggie thúc chân
vào bụng con vật rồi đi thẳng đến chuồng. – Con ngựa hồng khó tính này không thể
chung chạ với những con ngựa tầm thường. Meggie nói thật lớn và không thèm quay
lại. Ồ, sao lại phi lý thế! Dù đứng thẳng người trên hai chân, hắn cũng giống
linh mục Ralph; cũng cao lớn, vai rộng, hông thon, nhưng cái đẹp tỏa ra có phần
khác. Linh mục Ralph di chuyển như một vũ công, Luke lại như lực sĩ. Nhưng cả
hai đều có cặp mắt xanh như nhau, mũi cũng thanh và thẳng, đường nét của miệng
được vẽ rất tuyệt. Có lẽ anh ta không giống linh mục Ralph như cây bạch đàn màu
xám, thật cao và tuyệt đẹp với cây bạch đàn màu xanh, cũng cao như thế, và cũng
đẹp như thế. Sau cuộc gặp gỡ tình cờ đó, Meggie nghe ngóng dư luận về những lời
bình phẩm liên quan tới Luke. Bob và các anh trai đều hài lòng về công việc của
Luke và tỏ ra ăn ý với anh ta. Ngay cả Fiona cũng đề cập đến tên của Luke trong
một buổi tối trò chuyện, nhận xét rằng anh ta là một thanh niên đẹp trai. – Mẹ
có thấy anh ấy giống ai không? Meggie đang nằm dài trên thảm đọc sách hỏi bằng
một giọng rất tự nhiên. Fiona suy nghĩ một lúc. – Đúng rồi, mẹ thấy anh ta hao
giống linh mục De Bricassart. Cũng thân hình ấy, nước da ấy… Nhưng không giống
nhiều lắm. Hai người rất khác nhau về tính cách đàn ông. Meggie, mẹ muốn con ngồi
trên ghế như một thiếu nữ khi đọc sách. Không phải vì mặc quần cỡi ngựa mà con
tự cho phép xử sự như một thằng con trai phóng túng. – Có sao đâu – Meggie cãi
lại mẹ. Làm như có ai đó theo dõi con.
Xuống
bếp, Meggie mới khám phá ra sở dĩ Luke dám ăn mặc sang trọng với chiếc sơ mi và
quần màu sáng là vì anh ta đã chinh phục bà Smith. Chính bà là người giặt ủi quần
áo cho Luke. Một tuần sau gặp lại Luke gần con suối, Meggie nghĩ rằng Luke đã cố
tình chờ mình ở đó, nhưng hoàn toàn không định ra được thái độ nào nếu điều
nàng nghi ngờ ấy là đúng. – Chào Meghann. – Chào anh, Meggie đáp lại, mắt nhìn
thẳng hai tai của con ngựa hồng. – Có một cuộc khiêu vũ ở trại cắt lông cừu
Braich thứ bảy tuần tới. Cô có thích chúng ta cùng đi? – Cảm ơn anh đã mời tôi,
nhưng rất tiếc tôi không biết nhảy. Do đó tôi không tham dự. – Tôi sẽ tập cho
cô một vài động tác là xong, đó không phải là một trở ngại. Nhờ tôi đưa cô em
gái của ông chủ đi khiêu vũ, Bob sẽ cho tôi mượn chiếc xe Rolls già nua và biết
đâu đưa mượn cả chiếc ôtô mới? – Tôi đã nói với anh là tôi không đi! Meggie đáp
lại hàm răng cắn chặt. – Cô nói với tôi là cô không biết nhảy và tôi đã trả lời
với cô là tôi sẽ dạy cho cô. Cô không hề nói năng rằng cô không đi với tôi nếu
cô biết nhảy, điều đó cho phép tôi nghĩ rằng chính không biết nhảy là một cản
trở chớ không phải cá nhân tôi. Hay cô chỉ muốn đến đó trình diễn? Bực bội,
Meggie nhìn Luke bằng ánh mắt dữ tợn nhưng Luke vẫn bình thản cười lớn tiếng: –
Cô được nuông chiều hư hỏng, bé Meghann. Đã đến lúc mọi người xung quanh không
nên chiều theo tính khí bất thường của cộ – Tôi không thuộc loại con cưng. – Cô
hãy xem lại. Cô con gái duy nhất giữa các anh trai, người nào cũng thương yêu
cô; ngoài ra tất cả đất đai này, rồi tiền bạc, nhà cửa sang trọng, người làm
đông đảo…? Tôi biết chứ, chủ của cơ nghiệp này là Nhà thờ nhưng dòng họ
Cleary đâu phải không có tiền Bây giờ mới thấy ra sự khác biệt giữa hai người –
Meggie nghĩ thầm, đắc thắng. ànghĩ này chưa từng lóe lên trong đầu từ khi
Meggie gặp Luke. Linh mục Ralph không bao giờ chú ý bề ngoài. Luke không có sự
nhạy cảm như Ralph và không thể nhận ra cái gì giấu kín sau cái bề mặt. Đúng là
Luke đã xuyên qua cuộc đời như người cỡi ngựa xem hoa, không thấy sự phức tạp
và cũng không thấy sự đau khổ. Hoàn toàn bất ngờ, Bob trai chìa khóa chiếc
Rolls mới mà không thêm một lời nào; anh chỉ im lặng nhìn dò xét Luke rồi mỉm cười.
–
Tôi không tưởng tượng Meggie đi khiêu vũ nhưng anh cứ đưa em gái tôi đi, và
chúc hai người một buổi tối thật vui. Có lẽ em gái tôi sẽ rất thích. Tội nghiệp
con bé. Nó ít có cơ hội đi ra khỏi nhà. Đáng lẽ chúng tôi phải tìm cách cho
Meggie giải trí nhưng mọi người quá bận rộn. – Tại sao anh không đi với Jack và
Hughie? Luke hỏi, cho thấy anh không chống lại việc có nhiều người cùng đi. –
Không, cảm ơn. Chúng tôi không thích khiêu vũ. Meggie mặc chiếc áo dài màu hồng
tro vì rằng ngoài áo này không có áo nào khác. Chưa bao giờ trong đầu Meggie nẩy
ra ý nghĩ lấy tiền mà cha Ralph chuyển vào ngân hàng cho mình để mua sắm áo quần.
Cho tới nay Meggie vẫn từ chối lời mời mọc của bọn đàn ông như Onoch Davies và
Alastair Mac Queen. Tất cả họ đều không có sự vững vàng của Luke O” Neill. Nhưng
nhìn vào gương, Meggie nghĩ thầm mình sẽ đi cùng với mẹ đến Gillanbone tuần tới,
ghé ngang qua bà cụ Gert để đặt vài chiếc áo mới. Thật ra Meggie không muốn mặc
chiếc áo này, nếu có một cái áo khác thì Meggie đã thay ngay. Chiếc áo ấy nhắc
nhở một thời đã qua, một người đàn ông khác, cũng tóc đen. Chiếc áo này đã nhập
thân hoàn toàn với tình yêu và những ước mơ ban đầu của Meggie, có cả nước mắt
và niềm đau của sự cô đơn. Mặc chiếc áo đó đi với một người đàn ông khác như
Luke là phạm vào điều thiêng liêng nhất. Meggie đã quen giấu kín tình cảm của
mình, luôn giữ vẻ bình thản và vui vẻ. Meggie nghĩ đến mẹ và không khỏi rùng
mình, thương xót. Cuộc đời Meggie rồi cũng sẽ kết thúc như mẹ, luôn thu mình
không để lộ ra một tình cảm nào chăng? Có phải mọi chuyện đã bắt đầu với mẹ sau
khi mẹ gặp ba của Frank? Phản ứng của mẹ ra sao nếu mẹ hay được Meggie đã biết
tất cả sự thật về Frank? Ôi! Chuyện xảy ra ở nhà xứ! Tưởng như vừa xảy ra đêm
qua. Ba và Frank đối mặt nhau, còn Ralph đã siết chặt Meggie đến nỗi nàng phải
kêu lên vì đau. Và Meggie vẫn nhớ những câu nói kinh khủng mà cả hai đã thét
lên. Meggie đủ lớn khôn để hiểu rằng việc có con như mẹ nàng gây ra lắm hậu quả,
chứ không như trước kia Meggie chỉ nghĩ rằng khi đã làm vợ chồng thì việc quan
hệ xác thịt với người khác là điều triệt để bị cấm. Nỗi xấu hổ và nhục nhã ấy mẹ
đã phải gánh chịu vì Frank! Không ngạc nhiên sau đó mẹ đã tự cô lập. Nếu việc ấy
xảy ra cho mình – Meggie thầm nghĩ mình sẽ chọn cái chết. Trong các tiểu thuyết,
chỉ có những cô gái không ra gì, xấu xa nhất mới có những đứa con ngoại hôn;
còn mẹ đâu phải thế, và không xấu xa mà cũng không tầm thường. Với tất cả lòng
thành Meggie mong sao mẹ sẽ kể cho mình biết tự sự hoặc chính Meggie có can đảm
đề cập vấn đề. Biết đâu như thế sẽ giúp ích được mẹ, dù rằng một chút nào đó
thôi. Nhưng tiếc thay bà Fiona không
thuộc
loại người hay tâm sự hoặc gợi lên những trao đổi thân mật. Đứng trước tấm kiếng,
Meggie thở dài, ước mong với tất cả lòng thành một nỗi bất hạnh như thế sẽ
không xảy ra với mình. Thế nhưng Meggie vẫn còn trẻ; trong một lúc như thế này,
mặc chiếc áo màu hồng tro nhìn mình trong tấm kiếng, nàng lại ước ao được sống
với những cảm giác và đón nhận những rung động ồ ạt như một cơn gió to và nóng
bỏng. Meggie không muốn kéo lê thê cuộc sống còn lại của mình như một người máy
mà muốn có sự thay đổi. Tình yêu với một người chồng và những đứa con. Buồn nhớ
làm gì một người không đến với mình nữa? Ralph không muốn đến và mãi mãi sẽ
không đến. Ralph nói yêu Meggie nhưng tình yêu ấy không giống như của một người
chồng. Vì rằng Ralph đã làm hôn lễ với Nhà thờ. Có phải tất cả những người đàn
ông đều như thế, họ yêu một khái niệm lờ mờ hơn là có thể yêu một người phụ nữ?
Có gì bảo đảm là tất cả đàn ông không phải như thế. Nhưng dù sao cũng có những
người đàn ông đơn giản hơn, những người đàn ông dám đặt tình yêu dành cho một
người phụ nữ trên tất cả. Những người đàn ông như Luke chẳng hạn. – Tôi chưa
bao giờ gặp một thiếu nữ đẹp như cô. Luke vừa nói vừa cho nổ máy chiếc Rolls. –
Anh bao nhiêu tuổi, Luke? – Ba mươi, còn cô? – Gần hai mươi ba. – Nhiều thế à?
Trông cô như một cô bé. – Tôi không còn bé. – Ồ, thế thì cô đã yêu lần nào chưa?
– Một lần. – Chỉ có một lần thôi à? Vào cái tuổi hai mươi ba? Chúa ơi! Vào cái
tuổi của cô, ít ra tôi cũng yêu đến cả chục lần. – Tôi cũng có thể, nhưng ở
Drogheda rất ít đàn ông có thể làm rung động trái tim tôi. Nếu trí nhớ của tôi
không quá tồi thì anh là người đàn ông đầu tiên ở trang trại này dám tiến xa
hơn một lời chào hỏi rụt rè. … Buổi chiều khiêu vũ mà Meggie tham dự cùng
Luke không giống như cái kiểu mà Meggie đã chứng kiến trong ngày sinh nhật của
Mary Carson. Ở đây nối tiếp nhau chỉ có những cuộc nhảy đứng đắn từng nhóm như
polka hay mazurkas, bàn tay người đàn ông chỉ chạm nhẹ trong giao
tiếp,
còn trong những điệu luân vũ quay nhanh thì lại là những cánh tay mạnh bạo.
Không có cơ hội nào để giao tiếp thân mật hay để mơ mộng. Không mấy chốc Meggie
nhận ra rằng người bạn trai cao lớn và đẹp trai của mình được nhiều cô gái chú
ý. Luke là đối tượng của những cái nhìn đắm đuối và quyến rũ, cũng gần ngang với
Ralph nhưng công khai hơn. Luke cũng gợi lên lắm sự chú ý như Ralph đã từng gợi
lên… Đã từng gợi lên. Thật là khủng khiếp khi nhắc đến Ralph bằng quá khứ.
Đúng như Luke đã hứa, anh ta không để Meggie một mình đơn độc trong buổi lễ, ngoại
trừ lúc cần vào phòng sửa soạn. Anh ta không để hở một dịp nào cho các chàng
trai ở những vùng lân cận chen vào. Bản nhạc chót là một điệu luân vũ. Luke nắm
tay Meggie, tay kia choàng qua lưng nàng, kéo sát vào. Luke là một tay nhảy giỏi.
Meggie ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả trở nên dễ dàng, chỉ cần để cho Luke dìu
đi. Cảm giác thật tuyệt vời khi áp sát vào người đàn ông, nghe rõ da thịt rắn
chắc ở ngực và ở đùi và thấm vào nhiệt độ của người đàn ông. Những đụng chạm ngắn
ngủi với linh mục Ralph gây nên một cường độ cháy bỏng khiến Meggie không kịp
nhận ra những phản ứng thầm kín trong da thịt và lúc đó Meggie thành thật nghĩ
rằng mình sẽ không bao giờ tìm lại được một sự rung động như thế ở trong vòng
tay người đàn ông khác . Thế nhưng, thực tế vừa xảy ra rất khác. Toàn thân bị
kích thích, nhịp tim đập nhanh lên và Meggie biết rằng Luke nhận ra sự thay đổi
ở nàng nên càng siết mạnh, áp má của anh ta lên mái tóc Meggie.
CHƯƠNG
21
Cả
hai gần như không nói một lời nào trên đường từ Braich về Drogheda, cách xa một
trăm cây số. Khi về gần đến nhà, Luke cho xe dừng lại, bước xuống đất, đi vòng
qua cửa bên kia dìu Meggie cùng bước xuống. Người hơi run, Meggie tự hỏi lẽ nào
tất cả sẽ hỏng chỉ vì Luke tìm cách ôm hôn mình? Nhưng giữa sự im lặng tuyệt đối
của màn đêm, Luke không hề có một cử chỉ nào hướng về nàng. Quay lưng lại với
bóng đêm, Luke lấy ra bao thuốc rời, một tập giấy, rồi vấn một điếu. – Có phải
cô đã sinh ra ở đây, Meghann? Luke vừa hỏi vừa lơ đễnh những cọng thuốc lá vướng
trong lòng bàn tay. – Không. Tôi sinh ở Tân Tây Lan. Gia đình tôi đến Drogheda
cách đây mười ba năm. – Tối nay cô có thấy vui không? – Ồ, vui lắm! – Tôi rất
muốn đưa cô đi những buổi khiêu vũ khác. Rồi Luke lại lặng im; anh rít chầm chậm
từng hơi thuốc, mắt nhìn ngang qua mui xe hướng về lùm cây có con chim đang kêu
lên những tiếng khó chịu vì giấc ngủ đột ngột bị quấy rầy. Khi điếu thuốc tàn,
Luke ném xuống đất rồi dùng gót giày ấn mạnh nhiều lần, cho đến khi anh biết chắc
đã dập tắt. Không ai biết cách đè nát một mẩu thuốc lá bằng một người đàn ông
quen sống trong rừng rậm Úc châu. Với một tiếng thở dài, Meggie ngưng không ngắm
trăng nữa và Luke dìu nàng trở lên xe. Luke rất cảnh giác nên không ôm hôn
Meggie vào lúc này, vả lại anh đã có ý định chuẩn bị cả một kế hoạch để cưới nàng
làm vợ. Dù sao trước hết phải chờ chính Meggie mong muốn điều ấy. Sau đó, trong
suốt mùa hè còn có những dạ vũ khác và dần dần trong trang trại mọi người đều
quen với việc Meggie được một chàng trai tương xứng hộ tống. Các anh trai của
Meggie tránh trêu trọc vì rằng tất cả đều yêu thương Meggie và có cảm tình với
Luke, người làm công không hề biết mệt mỏi. Không bao lâu thì Luke có thói quen
đi thẳng về ngôi nhà lớn khi anh không ngủ qua đêm ngoài bãi chăn. Bob nhanh
chóng tuyên bố rằng để cho Luke ăn một mình trong khi bàn ăn của gia đình
Cleary lại dư thừa là một điều không đúng. Sau đó lại thấy thật là vô lý để
Luke hằng đêm sau khi ở lại nói chuyện với Meggie phải đi thêm đoạn đường dài một
cây số rưỡi để về nơi anh
nghỉ
ngơi. Thế là, cả nhà đề nghị Luke dọn về một trong những căn nhà nhỏ dành cho
khách nằm ngay ở phía sau nhà lớn. Lúc này, Meggie bắt đầu nghĩ nhiều về Luke;
nhưng ít dằn vặt cực lòng như trước đây mỗi khi Meggie nghĩ đến Ralph. Vết thương
lòng đang lành lại dần. Meggie quên đi rằng hai người tuy có cái miệng giống
nhau nhưng nụ cười của Ralph khác hẳn; đôi mắt xanh sinh động của Ralph chứa đựng
sự êm đềm xa vắng, còn đôi mắt của Luke sáng rực đam mê bão táp. Meggie còn trẻ
và chưa được nếm hương vị của ái tình dù trong những giây phút ngắn ngủi. Nàng ước
ao được nếm hương vị ngọt ngào ấy trên lưỡi mình, được hít vào lòng ngực như
hít một đóa hoa và uống cạn cho đến say. Linh mục Ralph đã trở thành Đức cha
Ralph; sẽ không bao giờ, không bao giờ Ralph trở lại với nàng. Ralph đã bán
Meggie với số tiền mười ba triệu đồng bảng, để lại trong lòng nàng nỗi oán hận.
Nếu Ralph không thốt ra câu nói này trong đêm ở ngoài bãi chăn Forehead thì
Meggie cũng không thắc mắc, đằng này Ralph đã dùng những lời lẽ ấy; từ đó trong
rất nhiều đêm, Meggie không nhắm mắt được, tự hỏi về ý nghĩa thật sự của câu
nói. Khi đặt lòng bàn tay lên lưng Luke trong đêm khiêu vũ, Meggie nghe cả người
mình lâng lâng khó chịu bởi con người này, bởi sự tiếp xúc và sức sống mê hoặc
của anh tạ Nhưng Meggie không hề cảm giác được ngọn lửa ầm ĩ quái lạ ấy xâm nhập
vào xương tủy mỗi khi ở cách xa Luke và nghĩ về Luke. Meggie cũng không tưởng tượng
ra rằng nếu không còn gặp Luke nữa thì mình sẽ cảm thấy héo hon và tàn úa. Luke
vừa khéo vừa kiêu căng, làm việc rất tích cực và khao khát làm giàu. Nhưng cuộc
sống lăn lộn trong nghề cắt lông cừu cho anh ta hiểu rằng mình không thể làm
giàu bằng con đường đó. Ở vào thời điểm này, Luke khám phá ra mình có sức quyến
rũ đối với phụ nữ. Anh ta đã thử thời vận lần đầu lúc làm thợ chăn nuôi ở
Guarlunga mà người thừa kế trang trại là một phụ nữ còn tương đối trẻ và đẹp.
Chỉ vì sự thiếu may mắn của anh ta mà cuối cùng nữ chủ đã chọn một người đàn
ông khác. Từ Guarlunga, Luke đến Bingelly, ở đây anh ta được nhận vào làm việc
với tư cách một người chuyên luyện ngựa. Luke chú ý ngay đến cô con gái lớn tuổi
tuy không được ông chủ cưng yêu nhưng sẽ là người chính thức thừa kế tài sản.
Anh ta gần như đã chinh phục được cô gái ấy nhưng cuối cùng cô ta lại nghe lời
cha đi lấy một ông chồng sáu mươi tuổi còn thích ăn diện, chủ một trang trại kế
bên. Hai lần thử thời vận ấy làm cho Luke mất đi hơn ba năm trong cuộc sống và
anh ta cho rằng thời gian hai mươi tháng phải mất cho mỗi nữ thừa kế là quá dài
và chán ngắt. Đã có lúc, anh ta nghĩ rằng nên đi du lịch thật xa, luôn thay đổi
khung cảnh sống, mở rộng chân trời của đời mình cho
đến
khi nào phát hiện ra một con mồi thật sự đáng chú ý. Thế là Luke vui chơi thỏa
thích, đi khắp nẻo đường tải súc vật ở miền tây Queensland, rồi thả dọc theo
các con sông Cooper và Diamantina, Barcoo và Bulloo Overflow, vào tận miền tây
xứ New South Wales. Bây giờ anh ta đã ba mươi tuổi, đã đến lúc phải tìm ra một
con gà mái đẻ được vài trứng vàng. Ai ai cũng bàn tán về Drogheda, riêng Luke
thì dò la được biết ở trang trại này chỉ có một người con gái. Không hy vọng cô
ta trở thành người thừa kế, nhưng biết đâu gia đình ấy sẽ dành cho cô ta của hồi
môn khoảng chừng bốn chục ngàn hecta đất ở phía Kynuna hay Winton. Vùng Gilly dễ
chịu nhưng có quá đông người và có nhiều loài cây không hợp với ý thích anh ta.
Luke mơ mộng đến sự bao la của vùng tây Queensland, cỏ mọc mút mắt, chẳng thấy
đâu là cây cối. Chỉ có cỏ và cỏ, không thấy nơi bắt đầu và nơi chấm dứt, ở đó
người chủ tha hồ thả nuôi mỗi con cừu trên khoảng rộng bốn hectạ Dù mục tiêu của
anh ta là bốn mươi ngàn hecta ở vùng Kynuna hay Winton – mục tiêu này đã trở
thành một ám ảnh đối với Luke – nhưng thật sự đồng tiền mới là thứ anh ta yêu
nhất, hơn cả những gì nó có thể mang lại. Làm chủ đất đai và thế lực đối với
Luke không hấp dẫn bằng những con số xếp hàng trên cuốn ngân phiếu mang tên
Luke O” Neill. Nếu là một người thật sự say mê trở thành chủ trang trại thì
không bao giờ Luke nhắm đến Meggie Cleary, đứa con gái không có trong tay một tấc
đất. Lần thứ mười ba trong mười tuần lễ liền, Luke đưa Meggie đi dạ vũ, lần này
do trường Thánh giá ở Gilly tổ chức. Đều đặn thứ bảy nào cũng thế, Luke mượn
Bob chìa khóa chiếc xe Rolls và đưa Meggie ra khỏi Drogheda khoảng hai trăm cây
số. Chiều tối hôm đó, trời lạnh và không có trăng, Meggie đứng tựa lưng vào
hàng rào cách xa nhà, ngắm nhìn cảnh vật. Dưới chân là tiếng rắc rắc của tuyết
đóng băng. Mùa đông đã đến. Cánh tay của Luke choàng qua vai Meggie vào kéo
nàng sát vào người. – Cô bị lạnh đấy, Luke nhận xét. Chúng ta nên lên xe trở về.
– Không sao, bây giờ em thấy dễ chịu. Em đã ấm lại – Meggie trả lời hơi thở dồn
dập. Meggie nhận ra một sự thay đổi ở Luke khi anh ta ấn mạnh cánh tay dù cho cử
chỉ ấy có vẻ như không chủ tâm. Nhưng thật dễ chịu làm sao khi áp sát vào người
Luke, đón nhận hơi ấm tỏa ra từ thân thể một người đàn ông đầy những bắp thịt
gân guốc. Dù mặc chiếc áo ấm xănđai khá dày bên ngoài, Meggie vẫn cảm giác rõ
những ngón tay của Luke vẽ những vòng tròn mơn trớn cố tình khơi dậy ở nàng một
phản ứng. Đến mức này, nếu Meggie bảo rằng lạnh thì Luke sẽ dừng lại;
Nếu
Meggie làm thinh không nói tiếng nào, Luke sẽ cho rằng đó là sự đồng tình.
Meggie còn trẻ và khao khát được tận hưởng tình yêu. Luke là người đàn ông thứ
nhất, ngoài Ralph được nàng chú ý, thế thì tại sao lại từ chối cái hương vị của
những nụ hôn? Cho rằng sự im lặng của Meggie có nghĩa là đồng tình, Luke đặt
bàn tay mình lên vai Meggie, xoay người nàng lại, mặt đối mặt. Luke đặt đôi môi
mình lên môi Meggie. Đôi môi của Meggie khẽ động đậy, dấu hiệu của sự chấp nhận.
Luke ấn mạnh miệng mình, đôi môi Meggie hé mở ra… Ghê tởm . Đúng lúc đó
Meggie nhận ra rằng không hiểu tại sao cảm giác đang có nó quá khác xa với lúc
Ralph ôm hôn mình, lúc đó Meggie không hề nghe thấy sự ghê tởm gần như buồn
nôn. Tức khắc, một sự trống rỗng xâm chiếm tâm hồn Meggie. Đôi môi của nàng đã
mở ra đón nhận nụ hôn của Luke không khác nào tủ sắt mở tung cánh cửa khi người
ta ấn đúng vào một cái lò xo bí mật. Luke đã hành động quái quỷ thế nào mà làm
cho toàn thân nàng run lên như vậy, khiến Meggie phải bấu chặt vào người Luke
trong khi vẫn hết sức thoát ra khỏi hai cánh tay của anh ta. Luke phát hiện điển
nhạy cảm của Meggie sẽ khiến cho nàng mất đi khả năng chống trả. Các ngón tay của
Luke ấn xuống cạnh sườn phía dưới của Meggie, truyền vào người nàng một luồng
điện. Cho đến lúc đó, nàng vẫn không hưởng ứng một cách cuồng nhiệt. Luke không
hôn môi Meggie nữa mà đặt đôi môi mình lên chiếc cổ mềm mại của nàng. Nàng tỏ
ra thích thú với sự tiếp xúc này; hơi thở dồn dập, hai bàn tay bấu vào đôi vai gân
guốc của Luke, nhưng khi Luke đưa đôi môi xuống gần ngực thì Meggie đột ngột xô
ra. – Như thế đủ rồi, Luke! Đoạn cuối làm Meggie thất vọng, cảm thấy hơi bị xúc
phạm. Luke cũng nhận ra điều đó trong khi dìu Meggie bước trở lên xe. Anh ta đứng
lại một lúc để vấn điếu thuốc, đầu óc suy nghĩ miên man. Anh vẫn tự cho rằng
mình là một người tình, một tay chinh phục có bản lĩnh. Cho đến nay, các cuộc
chính phục của anh ta chưa bao giờ bị phản ứng. Phải nói rằng, ngoại trừ vóc
dáng của mình, Luke có một kinh nghiệm tình dục không hơn một người làm thuê
trung bình ở nông thôn. Anh ta gần như không hiểu gì về các phản ứng thầm kín ở
người phụ nữ, ngoài ra những điều bản thân anh thích và chủ yếu thuộc về lý
thuyết. Đối với Meggie, Luke tự nhủ phải hết sức thận trọng, không cho phép
mình làm nàng hoảng sợ hay kinh tởm. Sự khoái cảm phải hoãn lại, có thế thôi.
Anh phải chinh phục Meggie theo chiều hướng tỏ ra thuận lợi, với những bông hoa
và sự ân cần chăm sóc, chứ không nên quá sỗ sàng. Hai người im lặng một lúc rồi
Meggie thở ra, ngả lưng trên chiếc ghế nệm ôtô.
–
Em xin lỗi anh, Luke. – Tôi cũng thế, rất hối tiếc về việc đã xảy ra. Tôi không
hề có ý định xúc phạm cô. – Ồ không đâu! Anh không hề xúc phạm em. Không đâu,
thật mà! Chỉ có điều em không quen lắm cái chuyện đó. Anh làm em hoảng sợ chứ
không phải xúc phạm. – Meghann ơi! Luke thốt lên, buông tay lái anh ta nắm lấy
hai tay của Meggie đang đặt trên đầu gối. Này nhé, cô đừng nhớ đến chuyện ấy nữa.
Chúng ta hãy quên đi. – Đúng thế, chúng ta đừng nhớ đến nữa, Meggie tán đồng. –
Anh ấy chưa bao giờ ôm hôn cô? Luke tò mò hỏi. – Ai? Trong câu hỏi của Meggie
hình như có sự lo âu? Nhưng tại sao lại lo âu như thế nhỉ? – Cô có nói với tôi
cô đã từng yêu, do đó tôi suy đoán là cô cũng hiểu đôi chút về chuyện… Tôi rất
ân hận, Meghann. Đúng ra tôi phải hiểu rằng, sống cô lập nơi xa xôi này trong một
gia đình như gia đình Cleary, thì câu chuyện mà cô kể với tôi chẳng qua là chuyện
yêu đương vu vơ của tuổi học trò thậm chí có thể người thanh niên ấy cũng không
chú ý đến cô. – Vâng, vâng, vâng. Luke nên nhìn sự việc như thế. Luke hoàn toàn
có lý. Đó chỉ là mối tình vu vơ của tuổi học trò. Về đến nhà, Luke lại ôm hôn
Meggie nhưng lần này anh ta hôn một cách dịu dàng, chỉ đặt môi mình lên môi
Meggie. Meggie không chống lại, tỏ ra đồng tình. Anh trở về căn nhà nhỏ dành
riêng cho khách và bằng lòng khi nghĩ rằng mình đã không làm tiêu tan đi những
hy vọng. Lần thứ hai Luke ôm hôn Meggie, nàng có một thái độ hoàn toàn khác. Họ
tham dự một buổi tiếp tân tổ chức ở Rudna Hunish. Trời lạnh và đường về xa.
Luke đã lén mang ra xe vài miếng bánh mì kẹp thịt và một chai rượu sâm banh. Đi
được hai phần đường, Luke cho xe dừng lại. Bấy giờ Úc rất hiếm ôtô có trạng bị
máy sưởi ấm, nhưng chiếc Rolls lại có. – Thật là dễ chịu. Vào một đêm giá lạnh
như thế này mà ngồi trên xe không cần mặc áo khoác, Meggie mỉm cười nhận xét.
Tiếng máy xe Rolls nổ đều đều như tiếng kêu gừ gừ của một con vật giữa sự vắng
lặng của khung cảnh bao la, còn bên trong hơi ấm tỏa ra cũng đều đều nghe như
tiếng thở than. Hai loại âm thanh rất khác nhau, nhưng đều êm dịu. Luke tháo cà
vạt, mở chiếc nút ở cổ áo sơ mi. Đột ngột, Luke quay sang choàng tay ôm nàng,
Meggie vẫn cảm thấy gắn chặt vào Luke, sau đó
không
kháng cự, nàng để cho Luke kéo nàng áp sát vào ngực. Lần này, Luke không đốt
giai đoạn. Môi của Luke như con bướm khi đáp trên đôi má mềm mại, khi đậu trên
đôi mắt nhắm lại, đưa nhẹ rất lâu trên hai hàng lông mi, rồi trở lại đáp trên
cái miệng có hình dáng trẻ thơ đã làm cho Luke điên người lên ở ngay cuộc gặp gỡ
đầu tiên. Rồi đến cổ, rồi làn da mịn màng, tươi mát của bờ vai… và Luke không
thể dừng lại được nữa. Nhưng trong đầu Luke vẫn sợ Meggie kháng cự. Mấy ngón
tay anh ta bắt đầu tấn công hàng nút phía sau chiếc áo của Meggie. … Khi Luke
đã ngồi ngay ngắn, máng lại hai sợi dây brơ-ten quần lên vai mình và cài lại
nhanh gọn hàng nút áo sau lưng Meggie, anh nói: – Anh nghĩ rằng chúng ta nên
làm đám cưới, Meghann. Các anh của em sẽ không đồng ý chút nào về việc vừa rồi
chúng ta đã làm. – Vâng, em cũng thấy như thế, Meggie đồng ý, mắt nhìn xuống,
hai má đỏ ửng lên. – Chúng ta sẽ thông báo cho họ biết vào sáng mai. – Tại sao
không? Càng sớm càng tốt. – Thứ bảy tới, anh sẽ lái xe đưa em đi Gilly. Chúng
ta đến gặp linh mục Thomas. Chắc là em thích cử hành hôn lễ trong nhà thờ.
Không ai ngạc nhiên lắm khi hay tin và cũng không ai có ý nghĩ chống lại hôn lễ.
Điều ngạc nhiên duy nhất cho gia đình là việc Meggie dứt khoát không chịu viết
thư cho Đức cha Ralph để thông báo tin này và phản ứng gần như điên loạn của
nàng khi Bob đưa ra ý kiến mời cha Ralph dự lễ cưới. Không, không, không!
Meggie hét lên. Từ trước đến giờ, Meggie không bao giờ nói lớn tiếng. Fiona hứa
sẽ không đề cập một chữ nào về chuyện này trong thư từ liên lạc với Đức cha
Ralph. Hình như bà cũng không quan tâm lắm điều đó, kể cả chuyện Meggie chọn được
một người chồng. Việc làm sổ sách cho trang trại lớn như Drogheda chiếm gần hết
thời giờ của bà. Những gì bà ghi lại trong sổ tay có thể cung cấp cho bất cứ
nhà viết sử nào muốn tả lại đời sống điển hình ở một nơi chăn nuôi cừu ở Úc. Chủ
nhật 22 tháng 7 năm 1934 đã được ghi vào sổ tay của bà như sau: Trời trong, nhiệt
độ sáng sớm một độ. Hôm nay không đi lễ. Bob có mặt ở nhà; Jack đi Murrimbah với
hai nhân công, Hughie đi West Dam với một nhân công. Beerbarrel đưa cừu ba tuổi
từ Budgin đi Winnemurra. Nhiệt độ lên cao lúc mười lăm giờ: 29 độ. Phong vũ biểu
ổn định, 777 milimét. Gió hướng tây. Thực đơn buổi ăn chiều: thịt bằm, khoai
tây luộc, càrốt và su, bánh pu-đinh với nho. Meghann Cleary sẽ thành hôn với
Luke O” Neill, thợ chăn nuôi vào thứ bảy 25 tháng tám tại Nhà thờ
Thánh
Giá ở Gillabone. Ghi lại lúc hai mươi mốt giờ; nhiệt độ: 7. Trăng khuyết còn lại
một phần tư..
CHƯƠNG
22
Sau
khi chuẩn bị xong xuôi cho lễ thành hôn, Luke nói với vợ sắp cưới: – Em yêu, anh
nghĩ ra sẽ đưa em hưởng tuần trăng mật ở đâu rồi. – Ở đâu anh? – Ở miền bắc
Queensland. Trong khi em ở tiệm may, anh có nói chuyện với vài tay trong quán rượu
Imperial. Họ có nói cho anh biết ở cái xứ trồng mía ấy rất dễ kiếm tiền đối với
một người khỏe mạnh không sợ lao động như anh. – Nhưng anh đã có một việc làm tốt
ở đây rồi! – Một người đàn ông biết tự trọng không thể sống bám vào gia đình vợ.
Anh muốn chúng ta kiếm thật nhiều tiền để mua một miếng đất ở Queensland. Anh
muốn việc đó thực hiện trước khi anh đã quá già không còn khả năng nghĩ đến nữa.
Khi không có trình độ văn hóa thì khó mà tìm một vị trí trong xã hội tốt, nhất
là trong cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhưng ở Queensland đang thiếu lao động, anh
sẽ làm ra tiền gấp mười lần hơn ở Drogheda này. – Bằng cách nào? – Chặt mía. –
Chặt mía à? Đó là công việc của một người cu ly mà! – Không đâu, em lầm rồi. Những
người cu ly quá nhỏ con để đạt năng suất của những công nhân da trắng và em
cũng dư biết luật lệ ở Úc không cho nhập cư những người da đen và da vàng đến
đây tìm việc làm dù với một đồng lương thấp hơn chúng ta. Người ta sợ rằng họ sẽ
lấy mất bánh mì của người Úc. Hiện nay công nhân chặt mía đang thiếu, do đó làm
công việc này có rất nhiều tiền. Rất ít người to lớn và khỏe mạnh có đủ sức
làm. Anh thì đủ sức. – Có phải ý anh muốn nói chúng ta sẽ sống luôn ở bắc
Queensland? Meggie nhìn Drogheda qua cửa kính. Những cây khuynh diệp cao lớn,
xa xa là bãi chăn cừu và rừng cây. Thế là ta sẽ không còn sống ở Drogheda nữa,
có nghĩa là sẽ ở một nơi nào đó mà Đức cha Ralph sẽ không bao giờ tìm gặp được.
Thế là ta vĩnh viễn không gặp lại Ralph mà gắn chặt cuộc đời mình với một người
xa lạ đang ngồi trước mặt. Không còn khả năng trở lại với quá khứ chăng? Đôi mắt
của Meggie biểu lộ một nỗi buồn không cần che giấu, nhưng Luke không thèm chú ý
đến. Bất cứ người phụ nữ nào dù có dịu dàng và đẹp như Meggie Cleary cũng không
đủ sức lèo lái anh tạ
Đầy
tự tin, Luke đi thẳng vào vấn đề. Có những lúc cần sự khéo léo, mưu mẹo nhưng
trong trường hợp này, theo anh ta sự thô bạo có ích hơn. – Meghann, anh hơi cổ
lỗ. – Thật à? Meggie nhìn Luke tò mò. Cậu hỏi ngược lại của Meggie hàm ý nhưng
có sao đâu? – Đúng thế, Luke nói tiếp. Theo anh sau khi cưới nhau, tất cả tài sản
của người vợ thuộc về người chồng, cũng như của hồi môn xưa kia. Anh biết em có
chút đỉnh tiền, do đó anh thấy cần phải làm đám cưới ngay từ bây giờ. Sau khi
chúng ta chính thức sống với nhau, em sẽ ký các giấy tờ cần thiết, số tiền của
em thuộc về anh. Anh nghĩ rằng nói trước các ý định của anh với em như vậy là
thẳng thắn hơn; em còn thời giờ để tự do chấp nhận hay từ chối. Trong suy nghĩ
Meggie không hề tính chuyện giữ riêng số tiền ấy mà vẫn nghĩ một khi trở thành
vợ Luke nàng sẽ giao tất cả cho chồng. Phần đông các cô gái Úc đều như thế, ngoại
trừ vài trường hợp chịu ảnh hưởng nền giáo dục tinh tế hơn thì lại khác. Đa số
tự coi mình là nô lệ của chồng như nô lệ với lãnh chúa hay một ông chủ nào đó.
Fiona và các con luôn luôn lệ thuộc Pađy và từ khi chồng chết, Fiona chuyển
giao quyền cho Bob, người kết vị. Người đàn ông làm chủ tiền, nhà, vợ và các
con. Meggie không bao giờ có ý định đặt lại vấn đề. – Ồ! Em đâu có biết rằng việc
ký các giấy tờ là cần thiết, Luke. Em chỉ nghĩ tất cả những gì của em đương
nhiên trở thành của anh sau ngày cưới. – Xưa kia đúng là như thế nhưng những thằng
chính khách ngu đần ở Canberia đã thay đổi mọi thứ khi chúng nhìn nhận quyền bầu
cử của phụ nữ. Anh muốn rằng mọi chuyện đều rõ ràng và đâu ra đó giữa chúng ta,
Meghann. Chính vì thế mà anh muốn em biết rõ ngay từ bây giờ mọi chuyện sẽ như
thế nào. – Nhưng em chẳng thấy có gì bất tiện cả Luke à, Meggie cười nói. – Em
có bao nhiêu tiền tất cả – Hiện giờ, mười bốn ngàn bảng. Ngoài ra em nhận thêm
hằng năm hai ngàn bảng nữa. Luke reo lên như thán phục: – Mười bốn ngàn bảng!
Thế là nhiều tiền quá, Meghann. Đúng là anh nên trông coi số tiền này. Tuần tới
chúng ta sẽ đi gặp ông giám đốc ngân hàng và em nhớ nhắc anh báo với ông ta rằng
từ nay tất cả tiền chuyển vào trương mục của em đều phải chuyển thẳng vào tên
anh. Em biết không, anh sẽ không đụng một đồng xu, số tiền dành dụm ấy sẽ giúp
chúng ta sau này mua một
trang
trại. Những năm tới, cả hai chúng ta sẽ làm việc cật lực và tiết kiệm từng đồng
xu chúng ta làm ra. Đồng ý chứ? – Vâng, Luke – Meggie tán đồng
CHƯƠNG
23
Sau
lễ cưới, Meggie trở thành bà Luke O” Neill, rồi cả hai lên đường đi bắc
Queensland. Cuộc hành trình rất mệt nhọc. Chặng đầu đi Goondiwindi, tàu hỏa đầy
ắp người, không có toa nằm. Chặng tiếp đi Carins, dù có toa nằm, Luke vẫn mua lại
vé ngồi hạng nhì khiến cho Meggie phải kêu lên: – Anh Luke, chúng mình có tiền
mà. Nếu anh đã quên ghé qua ngân hàng lấy tiền thì em cũng có sẵn trong xắc tay
một trăm bảng, tiền của Bob cho em. Sao anh không giữ chỗ hạng nhất ở toa có giường
nằm? Luke trố mắt nhìn Meggie, sự kinh ngạc hiện rõ từng nét trên gương mặt của
anh ta. – Nhưng cuộc hành trình đến Dungloe chỉ có ba ngày, tại sao lại phí tiền
mua vé toa nằm trong khi cả hai chúng ta đều còn trẻ và khỏe mạnh? Ngồi trên
tàu hỏa vài ngày cũng không chết đâu Meghann! Dù sao đã đến lúc em phải hiểu rằng
em đã kết hôn với một anh công nhân bình thường, chứ không phải với một tên thực
dân giàu có và đáng ghét. Ngồi sụp xuống ghế bên cửa sổ, người mệt rã rời, tay
chống cằm, Meggie nhìn ra cửa kính tránh không cho Luke phát hiện nước mắt đang
dâng lên và sắp sửa trào ra. Lòng Meggie như muốn nổi loạn hay nói đúng hơn, là
một ý nghĩ vùng dậy. Tuy nhiên tự ái và sự lì lợm ngăn không cho Meggie lao vào
một cuộc cãi vã không xứng đáng. Suốt cuộc hành trình Meggie nhức đầu kinh khủng
và không ăn được một thứ gì. Trời nóng khủng khiếp, chưa bao giờ ở Gilly trải
qua một cái nóng như thế này. Chiếc áo cưới xinh xắn bằng vải xoa màu hồng bây
giờ lem luốc bởi khói và bụi than đen sì từ cửa sổ bay vào. Đến ga Cardwell,
hai người xuống tàu. Luke mau chân đến một tiệm bán cá và khoai tây chiên đối
diện với nhà ga. Anh mang về hai khứa cá chiên đầy mỡ, gói trong giấy báo. – Nếu
ai chưa thưởng thức món cá ở Cardwell thì không thể nào hình dung được cái ngon
của nó, Meghann yêu quí. Cá ở đây ngon nhất thế giới! Này, em dùng đi, rồi em
cho anh biết ý kiến. Meggie liếc nhìn khứa cá đầt mỡ, liền đó lấy khăn tay che
miệng, chạy vội đến phòng vệ sinh. Luke chạy theo đứng ngoài hành lang chờ; một
lúc sau Meggie trở ra mặt tái nhợt, người run rẩy. – Chuyện gì vậy? Em không được
khỏe? – Em cảm thấy không được khỏe từ khi chúng mình rời ga Goondiwindị
Chiều
tối, tàu hỏa đến Dungloe, Meggie không còn sức để bước đi bình thường nhưng vì
tự ái nàng vẫn giấu Luke. Meggie theo sau Luke như người say rượu. Anh ta nhờ
người trưởng ga chỉ giùm một khách sạn dành cho công nhân. Phòng khách sạn hẹp,
đồ đạc bày biện kệch cỡm nhưng đối với Meghann lúc này còn hơn cả thiên đàng.
Không kịp thay đồ Meggie buông người xuống giường. – Em hãy nằm nghỉ một chút
trước khi ăn tối. Anh ra ngoài một vòng xem ở đây thế nào. Meggie thiếp đi
trong giấc ngủ mỏi mệt, bên tai vẫn nghe tiếng bánh xe sắt lăn trên đường rày
và cái giường lắc lư theo nhịp con tàu.
CHƯƠNG
24
Có
ai đó đã cởi giày và vớ, trước khi đắp lên mình Meggie tắm vải giường. Nàng vươn
vai mở mắt ra và nhìn chung quanh. Luke ngồi bên cửa sổ, một chân rút lên, đang
hút thuốc. Nghe vợ trở mình, Luke quay lại mỉm cười. – Này cô ơi! Cô đóng vai một
người vợ mới cưới thật dễ thương! Trong khi anh sốt ruột chờ đợi để bắt đầu tuần
trăng mật thì vợ anh ngủ vùi luôn hai ngày! Lúc đầu anh hơi lo vì không làm sao
gọi em thức dậy được nhưng ông chủ khách sạn đã giải thích với anh rằng có nhiều
phụ nữ cũng ngủ vùi như thế sau một cuộc hành trình bằng tàu hỏa với khí hậu ẩm
thấp trong vùng. Bây giờ em thấy thế nào? – Em cảm thấy dễ chịu hơn, cảm ơn
anh. Đành rằng em trẻ và khỏe mạnh nhưng dù sao em vẫn là một phụ nữ. Sức chịu
đựng của em vẫn kém hơn anh chứ. Luke đến ngồi bên mép giường, nắm tay Meggie
vuốt ve tỏ ý hối hận. – Anh xin lỗi em, Meghann. Anh quên đi em là một phụ nữ.
Em thấy không, anh chưa quen với vai trò làm chồng của mình. Có thế thôi. Em có
đói không? – Em chết đến nơi vì đói. Gần một tuần qua em có ăn gì đâu. Luke đưa
Meggie vào tiệm ăn Trung Hoa sát bên khách sạn. Bây giờ ăn gì cũng thấy ngon.
Ăn xong Luke nắm tay dẫn Meggie đi dạo khắp Dungloe cứ như thành phố này thuộc
về anh ta. Cung cách đó cũng hợp lý vì Queensland là nguyên quán của Luke. Trên
đường phố Dungloe có rất nhiều người Trung Hoa, đàn ông và phụ nữ ăn mặc gần giống
nhau khiến Meggie rất khó phân biệt. Gần hết hoạt động thương mại đều nằm trong
tay người Trung Hoa. Cửa hàng đầy đủ và lớn nhất mang tên Ah Wong” s; phần
đông các cửa hiệu cũng đều của người Trung Hoa. Ở đâu cũng thấy xe đạp, hàng
trăm chiếc; rất ít xe ôtô, tuyệt nhiên không có ngựa như ở Gilly. Dungloe hoàn
toàn khác các thành phố miền tây. Ở đây rất nóng, nóng dữ dội, mặc dù chỉ khoảng
32 độ. Ở Gilly có lúc nhiệt độ lên đến 46 nhưng không khí thấy dễ chịu hơn. –
Luke ơi, em mệt quá không chịu nổi nữa! Chúng ta hãy trở về khách sạn – Meggie
vừa nói vừa thở hổn hển dù mới đi bộ không hơn một cây số. – Tùy ý em. Chính
cái không khí ẩm làm cho em mệt. Ở đây mưa quanh năm, khó phân biệt mùa nào với
mùa nào. Nhiệt độ ở khoảng giữa 29 đến 35. Về đến khách sạn, Luke mở cửa phòng
rồi nép qua một bên để Meggie bước vào một mình.
–
Anh xuống quầy rượu uống một ly bia. Anh sẽ trở lại trong nửa giờ, như thế có đủ
thời giờ cho em sửa soạn. – Vâng, Luke – nàng vừa nói vừa nhìn Luke với vẻ hốt
hoảng. Khi Luke trở về phòng thì Meggie đã tắt đèn, phủ tấm chăn lên đến cằm.
Luke không thể nín cười, kéo giật tấm vải ra khỏi người Meggie và vứt xuống đất.
– Trời nóng như thế này quá đủ rồi em ạ. Chúng ta không cần tấm vải này đâu.
Meggie nghe tiếng chân Luke bước trong phòng, nhìn thấy bóng của Luke trong khi
anh cởi quần áo. – Em để bộ đồ ngủ của anh trên bàn phấn – Meggie nói thì thầm.
– Quần áo ngủ? Trời nóng thế này mà mặc quần áo ngủ? Anh vẫn biết ở Gilly người
ta đánh giá đủ điều một người đàn ông không mặc quần áo khi lên giường, nhưng
chúng ta đang ở Dungloe em à! Em đang mặc áo ngủ à? – Vâng. – Thế thì vứt nó ra
đi. Nó chỉ làm cản trở chúng ta. Mò mẫm trong bóng tối, cuối cùng Meggie đã cởi
bỏ được chiếc áo ngủ bằng vải phin mỏng mà bà quản gia Smith với lòng thương
yêu Meggie đã bỏ công thêu với chủ đích để nàng mặc trong đêm tân hôn. Meggie cầu
trời trong bóng tối Luke sẽ không thấy rõ nàng. Luke đoán không sai. Meggie cảm
thấy thoải mái và tươi mát hơn khi nằm dài trên giường không bị mảnh vải nào vướng
vào thân thể, để cho cơn gió nhẹ từ những cửa sổ nhỏ mở rộng mơn trớn làn da
láng mịn. Nhưng khi Meggie tưởng tượng có một thân thể khác nóng ran nằm kế bên
thì nàng lại thấy chán nản. Lò xo giường kêu lên; Meggie nghe một thứ da thịt ướt
đẫm mồ hôi chạm vào tay, khiến nàng không khỏi giật mình. Luke nằm nghiêng qua,
choàng tay ôm lấy Meggie. Lúc đầu, nàng không đồng tình, nhưng vẫn nằm yên. Vậy
mà khi nghĩ đến cái miệng của Luke, cái hôn bằng lưỡi sỗ sàng của anh ta,
Meggie vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Luke. Nàng không muốn có sự tiếp
xúc trong cái nóng nực này, nàng không muốn được ôm ấp và nàng cũng không muốn
có Luke. Diễn tiến đêm nay không giống chút nào cái đêm trên chiếc xe ôtô Rolls
khi cả hai từ Rudna Hunish trở về nhà. Meggie không cảm nhận được ở Luke điều
gì gọi là âu yếm, một phần thân thể mạnh bạo của Luke đang cố sức đẩy vẹt hai
đùi Meggie ra, trong khi đó một bàn tay với những móng tay không được cắt sát bấm
sâu vào mông nàng. Sự e dè lúc đầu biến thành sợ hãi.
Luke
không cần biết nàng nghĩ gì, cảm giác ra sao trong lúc này. Rồi bỗng nhiên, anh
ta buông Meggie ra, ngồi dậy, sờ soạng, rồi tìm gặp một cái gì nắm kéo ra, gây
nên một tiếng động rất lạ. – Tốt hơn là nên đề phòng trước – anh ta nói hổn hển.
Em nằm ngửa đi – Không phải như thế! Sao em lại dốt đến thế. – Không, không,
Luke, em không muốn đâu! – Nàng muốn hét lên. Thật kinh khủng, tục tĩu. Đến một
lúc, dù vừa mệt vừa sợ hãi đến mờ cả lý trí, Meggie vẫn phải thét lên nghe xé
tai. – Em im đi! Luke ra lệnh. Cái gì kỳ cục vậy! Có phải em muốn làm náo động
cả khách sạn này để cho mọi người hiểu lầm là anh định giết em? Nằm im đi. Chuyện
này với em cũng không đau đớn gì hơn những người khác đâu! Nằm im đi. Anh bảo nằm
im đi. Meggie vùng vẫy như một người bị quỷ ám, cố hất văng cái vật khủng khiếp
đã gây cho nàng sự đau đớn nhưng với tất cả sức nặng của thân xác, Luke đè bẹp
nàng không thể cục cựa và dùng tay ngăn không cho Meggie hét. Một lúc rất lâu
Luke mới chịu buông tha, lăn qua một bên nằm yên, thở dồn dập. – Lần sau em sẽ
thích thú hơn, Luke nói giữa những cơn thở hổn hển. Lần đầu bao giờ cũng thế –
rất đau đối với người phụ nữ. Nhưng rồi lần thứ hai, thứ ba cũng thế. Luke tỏ
ra kinh ngạc, không hiểu tại sao nàng vẫn vùng vẫy la hét, tưởng rằng sau lần đầu
thì sự đau đớn sẽ tự nhiên tan biến đi. Cuối cùng Luke nổi giận, quay lưng lại,
nhắm mắt ngủ. Meggie cảm thấy nước mắt nhỏ xuống hai bên má rồi lẫn vào trong
tóc. Nằm ngửa nhìn lên trần nhà, Meggie ước ao được chết đi hay ít ra được trở
lại cuộc sống xưa kia ở Drogheda.
CHƯƠNG
25
–
Anh đã tìm được việc làm cho em, Luke nói với Meggie lúc hai người ăn sáng. –
Sao? Tìm việc làm cho em trước khi chúng ta tìm được một căn nhà? – Meggie! mướn
nhà làm gì, thật là vô ích. Anh đi chặt mía, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Nhóm thợ chặt
mía giỏi nhất Queensland gồm những người Thụy Điển, Ba Lan, Ãi Nhĩ Lan do một
tay tên là Arne Swenson điều khiển. Trong khi em ngủ anh đã gặp hắn. Hiện nhóm
của hắn thiếu một người và hắn bằng lòng nhận anh hai mươi bảng một tuần, số tiền
ấy đâu phải nhỏ. – Có phải anh định nói là chúng ta không sống chung cùng một
nơi? – Không thể được Meggie! Phụ nữ không được phép ở lán trại của bọn đàn
ông. Vả lại ở nhà một mình em sẽ làm gì? Tốt hơn hết là em cũng nên làm việc; tất
cả đồng tiền mà chúng ta làm ra sẽ dùng vào việc mua trang trại. – Nhưng em sẽ ở
đâu? Em sẽ làm loại công việc gì? Ở đây đâu có gia súc như ở Drogheda? – Không
đâu. Chính vì thế mà anh đã tìm ra một nơi em có thể ăn ở luôn mà anh khỏi phải
tốn kém. Em sẽ làm việc tại Himmelhoch như người giúp việc cho gia đình Ludwig
Mueller. Đây là một tay trồng mía lớn nhất trong vùng, còn vợ hắn thì bị tàn tật.
Bà ta không thể dọn dẹp nhà cửa. Anh sẽ đưa em đến đó sáng mai. – Nếu đó là sự
chọn lựa của anh… (Meggie nhìn xuống chiếc xắc tay). Luke, có phải anh đã lấy
một trăm đồng bảng của em? – Anh đã gởi tất cả vào ngân hàng. Không lẽ em đi dạo
lại mang theo số tiền lớn như thế sao Meggie? – Nhưng như thế là anh đã lấy của
em đến đồng xu cuối cùng. Dù sao em cũng cần chút đỉnh tiền xài vặt chứ? – Trời
ơi em cần tiền để làm gì? Bắt đầu sáng mai em ở Himmelhoch và em không có dịp
nào để xài tiền. Còn tiền trả khách sạn bây giờ anh sẽ lo. Đã đến lúc em phải
hiểu rằng em đã lấy một người chồng lao động thực sự chứ không phải là một cô
gái được một tên thực dân giàu có dư tiền liệng qua cửa sổ. Tất cả tiền hàng
tháng em làm ra, Muwller sẽ không trả thẳng cho em mà sẽ chuyển vào trương mục
tên anh ở ngân hàng. Anh cũng sẽ gởi vào ngân hàng tất cả tiền làm ra. Anh
không xài đồng nào cho riêng anh, em cũng biết điều đó. Cả hai chúng ta, không
đụng vào, vì số tiền đó là tương lai của chúng ta, nó là cái trang trại của
chúng ta.
–
Vâng, em đã hiểu, Meggie tán đồng. Anh tỏ ra rất biết điều, Luke. Nhưng nếu em
có một đứa con thì sao? Thoạt đầu, Luke định nói cho Meggie biết thật sự sẽ
không có con trước khi mua được trang trại nhưng Meggie đang nhìn lên Luke khiến
anh ta tránh sang phía khác: – Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề đó khi nào xảy ra.
Anh muốn chúng ta khoan có con đã trước khi mua được trang trại. Không mái gia
đình, không tiền, không con. Coi như cũng không chồng. Meggie bỗng cười to lên.
Luke cũng cười theo, nâng tách trà lên chúc mừng: – Hoan hô capốt Ănglê.
CHƯƠNG
26
Bốn
tuần lễ trôi qua trước khi Meggie gặp lại Luke. Cứ mỗi sáng chủ nhật, Meggie
trang điểm đàng hoàng, mặc chiếc áo dài vải xoa xinh xắn chờ đợi anh chồng
không bao giờ tới. Ông chủ Mueller và Anne, và vợ ông, im lặng không một lời
bàn tán. Tất nhiên Meggie kinh tởm khi nhớ lại hai đêm ngủ ở khách sạn Dunny nhưng
ít ra lúc đó nàng có Luke bên cạnh. Nàng hối tiếc tại sao mình lại la hét như
thế, đúng ra phải cắn lưỡi làm thinh. Nhưng không thể trở lui lại được nữa rồi.
Sự đau đớn và rên la của Meggie gây mất hứng cho Luke và đã khiến cho Luke tìm
cách xa lánh. Thái độ thản nhiên của Luke trước sự đau đớn của Meggie lúc ấy
làm nàng hết sức bực bội, nhưng bây giờ nhớ lại thái độ của mình, nàng không khỏi
hối hận và cuối cùng tự cho mình có lỗi. Ngày chủ nhật thứ tư, Meggie không sửa
soạn, làm việc trong bếp, đi chân không, mắc quần ngắn và áo ngắn, trong lúc
chuẩn bị buổi ăn sáng nóng cho Ludwig và Anne; hai ông bà chấp nhận cho Meggie
ăn mặc như thế một lần trong tuần. Nghe có tiếng chân bước lên cầu thang sát
nhà bếp, Meggie bỏ mặc những quả trứng đang chiên trên chảo, nàng sửng sốt một
lúc nhìn con người cao to lông lá đứng ở ngưỡng cửa. Luke? Có phải Luke không?
Tưởng như đó là bức tượng tạc từ trong đá cẩm thạch, không phải là con người.
Nhưng Luke đi ngang qua nhà bếp, đặt lên má Meggie một cái hôn kêu thành tiếng
rồi kéo ghế ngồi xuống cạnh bàn. Meggie trở lại chiên những quả trứng khác,
thêm vào trong chảo vài lát mỡ. Anne Mueller bước vào, cười hiền hòa nhưng
trong lòng giận dữ – tên chó chết này đến đây làm gì sau bao nhiêu ngày bỏ bê vợ
hắn. – Tôi rất vui mừng thấy ông không quên rằng mình có một người vợ. Mời ông
ra hành lang ăn sáng với chúng tôi. Ludwig Mueller sinh ở Úc nhưng gốc gác người
Đức. Hai vợ chồng đều có cảm tình với Meggie và tự cho mình rất may mắn được
Meggie giúp việc. Ông chồng rất biết ơn Meggie vì nhận ra rằng vợ ông vui hẳn
lên từ khi có mái tóc vàng óng ả lấp lánh trong căn nhà này. – Công việc chặt
mía thế nào hở Luka? ông vừa chia trứng vừa hỏi Luke. – Nếu tôi nói rằng tôi rất
thích công việc ấy ông có tin không? Cái nhìn rất sắc của Ludwig hướng thẳng
vào gương mặt đẹp trai của Luke:
–
Vâng. Anh thuộc loại người có thể lực và tâm tính phù hợp công việc ấy. Loại
lao động này mang lại cho anh một nhận thức mình hơn những người khác. Anne
nói: – Anh biết không, tôi đã bắt đầu nghĩ rằng là anh sẽ không bao giờ đến gặp
Meggie nữa. – Thưa thật với ông bà, trong lúc này, Arne và tôi đã quyết định
làm luôn ngày chủ nhật. Ngày mai chúng tôi đi Ingham. – Như thế, Meggie sẽ rất
ít được gặp anh. – Meggie hiểu mọi chuyện. Tình trạng này chỉ kéo dài trong vài
năm. Vả lại, chúng tôi có thời gian nghỉ vào mùa hè. Arne nói với tôi vào lúc
đó anh ta có thể giới thiệu tôi đi làm ở nhà máy đường tại Sydney, và có thể đưa
Meggie đến đó được. – Cái gì buộc anh phải làm việc cực khổ như thế, Luke? Anne
hỏi. – Tôi cần gom đủ tiền để mua một trang trại ở miền tây, trong vùng Kynuna.
Meggie không nói cho ông bà biết ý định của chúng tôi sao? Sau buổi ăn sáng,
Luke giúp Meggie rửa tách đĩa rồi đưa vợ đi dạo ở vườn trồng mía gần nhất; anh
không ngớt đề cập đến đường, mía, về công việc đốn mía tuyệt vời của anh, về cuộc
sống ngoài trời thú vị, về những đồng đội hết ý trong nhóm thợ của Arne. Công
việc này khác hẳn so với công việc cắt lông cừu. Khi trở lại nhà, Meggie hỏi
Luke: – Anh có thấy căn nhà này đẹp không? Theo anh liệu hai năm sống ở đây,
chúng ta có thể mướn riêng một căn nhà không? Em thèm muốn được chăm sóc như em
đã chăm sóc căn nhà này. – Tại sao em lại có suy nghĩ điên rồ sống một mình
trong căn nhà. Chúng ta đâu phải ở Gillanbone. Nơi đây không phải chỗ mà một phụ
nữ có thể ở nhà một mình an toàn. Em ở đây không vui sao? Này Meggie, em nên tạm
bằng lòng với những gì em đang có cho đến khi nào mình có thể đi miền tây. Dứt
khoát không thể phí tiền để mướn nhà, anh không thể để cho em có một cuộc sống
ăn không ngồi rồi trong khi chúng ta cần tiết kiệm. Em nghe anh nói chứ? –
Vâng, Luke. Luke vội vã đến đỗi quên mất rằng ý định ban đầu của anh là đưa vợ
xuống phía dưới căn nhà sàn để ôm hôn nàng, cuối cùng Luke chào từ biệt Meggie
bằng cách vỗ vào mông vợ khá mạnh khiến nàng cũng thấy đau, rồi lần theo con đường
mòn, đi xuống nơi anh để chiếc xe đạp dựa vào một gốc cây. Thà đạp xe ba mươi
cây số để đến đây chứ nhất quyết không chịu tốn tiền mua vé xe buýt.
–
Thật tội nghiệp con bé! Anne nói với chồng. Em rất muốn giết anh chồng quái đản
ấy. … Ngày tháng trôi qua, một năm rồi hai năm. Chỉ có lòng tốt không đổi
thay của gia đình Mueller đã giữ Meggie ở lại Himmelhoch giữa lúc nàng chưa biết
phải giải quyết thế nào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Chỉ cần viết thư cho
Bob là Meggie có ngay tiền để trở về nhà. Nhưng Meggie đáng thương không thể giải
quyết bằng cách thú nhận với gia đình là Luke đã không để lại cho nàng một xu.
Nếu một ngày nào đó nàng quyết định thì đó là lúc Meggie bỏ Luke vĩnh viễn, còn
bây giờ thì chưa chín mùi để chọn giải pháp ấy. Giáo dục gia đình cho Meggie thấy
lấy chồng là một việc thiêng liêng và nàng hy vọng một ngày nào đó nhu cầu làm
mẹ được thỏa mãn, vị trí làm chồng đúng nghĩa của Luke sẽ buộc Meggie ở lại.
Nàng gặp được Luke tất cả sáu lần trong mười tám tháng xa nhà; nhiều lúc Meggie
nghĩ rằng Luke sống đồng tình luyến ái với Arne như vợ chồng. Mỗi tháng một lần,
làm đúng bổn phận của mình, Meggie viết thư cho mẹ và các anh, kể lể vài dòng về
bắc Queensland. Các câu chuyện được ghi chép lại không thiếu nét hài hước, nhưng
dứt khoát không hề đề cập các mâu thuẫn giữa mình và Luke. ông bà Mueller được
nói tới như những người bạn của Luke; Meggie ăn ở nhà ông bà Mueller vì Luke thường
đi làm ăn xa. Thỉnh thoảng Meggie lấy can đảm để đặt một câu hỏi vẩn vơ về Đức
cha Ralph nhưng thường thì Bob lại quên viết lại cho em gái một ít tin tức mà
bà Fiona biết được về ngài giám mục. Đột nhiên một hôm Meggie nhận được lá thư
của Bob trong đó đề cập rất dài về Ralph: Một hôm, ông ấy đến như từ trên trời
rơi xuống. ông ta hơi bối rối, có vẻ buồn vã và hết sức kinh ngạc vì không tìm
thấy em. ông ta điên tiết lên về việc cả nhà không ai cho ông hay chuyện Luke
và em. Nhưng khi mẹ giải thích cho ông ta biết rằng tất cả do cái tính ngang bướng
của em và chính em đã từ chối cho ông ta hay tin đám cưới, thì ông ta dịu ngay
và không nói lời nào nữa. Nhưng anh có cảm tưởng là sự vắng mặt của em trong
nhà làm cho ông ta thấy trống trải hơn sự vắng mặt của bất cứ ai khác. Cho rằng
điều đó cũng bình thường thôi vì em gần gũi với ông ta nhiều nhất và lúc nào
ông ta cũng coi em như em gái của ông ta. Ông đi lang thang khắp nơi như một
linh hồn đau khổ đi vất vưởng, hình như ông ta chờ đợi em xuất hiện đột ngột ở
mỗi khúc quanh trên con đường ông đi tới. Tội nghiệp ông ta quá! Ở nhà không có
một bức ảnh nào của em để đưa cho ông ta xem, đến khi ông ta hỏi những ảnh chụp
đám cưới thì anh mới sực nhớ rằng mình không chụp một ảnh nào hết. Ông ta có hỏi
em có con chưa, anh trả lời rằng hình như chưa. Em chưa có con phải không
Meggie? Em đã lấy chồng bao lâu rồi? Anh rất mong sắp tới em có con vì anh nghĩ
rằng giám mục sẽ rất bằng lòng nếu được tin này. Anh có tỏ ý ghi địa chỉ
của
em cho ông ta nhưng ông ta không muốn. Ông trả lời rằng cũng vô ích vì ông sẽ
đi Athenes bên Hy Lạp; ông sẽ ở đó một thời gian với vị Tổng giám mục mà ông
đang ở dưới quyền. Tên vị Tổng giám mục này dài thườn thượt như một cánh tay,
anh không làm sao nhớ nổi. Em có biết không, họ sẽ đi Hy Lạp bằng máy bay. Nói
tóm lại khi giám mục biết rằng em không còn ở Drogheda để cùng ông phi ngựa dạo
chơi thì ông không chịu ở lại lâu. ông chỉ cỡi ngựa đi dạo một hai lần, làm lễ
cho cả nhà mỗi ngày và một tuần sau thì từ giã Drogheda. Meggie đặt lá thư xuống
bàn. Thế là anh ấy biết rồi. Anh ấy đã biết rồi. Ralph sẽ suy nghĩ thế nào? Anh
ấy có đau buồn không? và đến mức nào? Tại sao Ralph lại đẩy nàng phải hành động
như thế này? Đâu có giải quyết được gì. Meggie không yêu Luke. Chẳng qua anh ta
chỉ đóng vai người trám vào chỗ thiếu vắng, một người có thể mang lại cho
Meggie những đứa con giống như những đứa con mà đáng lý Meggie có thể có với
Ralph. Trời ơi! Tất cả đều rối lên!
CHƯƠNG
27
Tổng
giám mục Di Contini Verchese thích ở khách sạn bình thường hơn là căn phòng mà
người ta đã dành cho ông ở Athens. Ông có một sứ mạng tế nhị khá quan trọng, phải
bàn với các nhà lãnh đạo Nhà thờ chính giáo Hy Lạp nhiều vấn đề. Tổng giám mục
hiểu rằng chuyến công tác là một thử thách ngoại giao, bàn đạp để ông nhận lãnh
những công việc quan trọng hơn ở La Mã. Và không thể nào tưởng tượng rằng Ngài
đến đây mà không có giám mục Ralph cùng đi. Năm tháng trôi qua, Tổng giám mục
ngày càng tin cậy vào con người tuyệt vời này. Một Mazarin, một Mazarin đích thực.
Đức cha Di Contini ngưỡng mộ Mazarin hơn là Richelieu. Một sự so sánh đầy vinh
dự cho Ralph. Đúng vào lúc đó, cách xa gần hai mươi ngàn cây số, Ralph mới có
thể nhớ đến Meggie mà không bị giày vò bởi sự thèm muốn được khóc. Làm sao
Ralph có thể oán giận về việc Meggie lấy chồng mà chính ông đã từng thúc đẩy?
Ông hiểu ngay lý do tại sao Meggie nhất quyết giữ kín ý định của mình, tại sao
Meggie không muốn cho ông gặp người chồng trẻ và cũng không cho tham dự vào cuộc
đời mới của nàng? Lúc đầu, Ralph tưởng rằng dù thế nào, vợ chồng Meggie cũng sẽ
ở Gillanbone, nếu không ở Drogheda, có nghĩa tiếp tục ở nơi nào Ralph biết chắc
nàng sẽ được yên ổn, tránh mọi âu lo và nguy hiểm. Nhưng sau suy nghĩ lại,
Ralph hiểu ra rằng Meggie muốn bằng mọi giá không cho Ralph được ngủ trong sự
yên lòng ấy. Meggie buộc lòng phải ra đi và ngày nào nàng và Luke còn sống
chung thì Meggie sẽ không bao giờ trở lại Drogheda. Bob xác nhận là cặp vợ chồng
này dành dụm tiền để mua một trang trại ở bắc Queensland, tin này coi như kết
thúc mọi chuyện. Meggie có ý định sẽ vĩnh viễn không gặp lại Ralph. Nhưng em có
hạnh phúc không Meggie? Chồng em đối xử với em tốt không? Em có yêu hắn không,
cái anh chàng Luke ấy hẳn chỉ là một công nhân nông nghiệp bình thường có gì
hơn để cho em chọn hắn thay vì chọn Enoch Davies, Liam O” Rouke hoặc Alastair
Mac Queen? Có phải chăng em cố tình chọn một người mà anh chưa từng quen biết để
không thể so sánh? Có phải chăng em hành động như thế để hành hạ anh, trả thù
anh? Nhưng tại sao em lại không có con? Cái anh chàng ấy mắc cái chứng gì mà
lang thang như tên bụi đời, buộc em phải ở nhờ với những người bạn? Em không có
con, điều đó không có gì phải ngạc nhiên; hắn ở gần em có được bao lâu đâu.
Meggie ơi, tại sao lại như thế? Tại sao em lấy Luke làm chồng?
Khách
sạn rất sang trọng và đắt tiền ở gần công viên Omonia. Tổng giám mục Di Contini
Verchese ngồi trên ghế bành đặt ở gần cửa sổ nhìn ra ban công; ông đang suy tư
thì Ralph bước vào. Ông quay lại mỉm cười. – Ralph đến đúng lúc ta đang muốn cầu
nguyện. – Con tưởng mọi chuyện đã dàn xếp xong. Hay là có những rắc rối vào giờ
chót thưa Đức cha? – Không phải chuyện đó. Ta vừa nhận một lá thư của Hồng Y
Monteverdi truyền lại ý của Đức Thánh Cha. Giám mục Ralph bỗng thấy hai vai cứng
lại, hai tai nóng bừng khó chịu. – Thưa Đức cha, có chuyện gì? – Thật ra mọi việc
coi như đã xong ngay sau khi kết thúc các cuộc thảo luận mà ta tiến hành ở đây.
Ta phải quay về La Mã để được phong Hồng Y. Ta phải tiếp tục sự nghiệp tại
Vatican theo lệnh trực tiếp của Đức Thánh cha. – Còn con thì sao…? – Con sẽ
trở thành Tổng giám mục Ralph và con sẽ trở lại Úc thay chỗ của ta làm Khâm mạng
Tòa thánh. Đầu óc của giám mục Ralph choáng váng, ông suýt ngã. Dù không phải
là một người Ý, thế mà Ralph vẫn được vinh dự phong làm Khâm mạng Tòa thánh! Một
quyết định chưa từng có trước đây! Ồ, có sao đâu. Vatican hoàn toàn có thể tin
nơi ông; ông sẽ bước lên địa vị Hồng Y giáo chủ! – Thưa Đức cha, không làm sao
ghi hết ơn huệ mà Đức cha đã ban cho con! Nhờ Đức cha mà con có được sự ưu đãi
đặc biệt này. – Chúa đã ban cho ta sự thông minh khá đầy đủ để có thể nhận ra
khả năng của một con người không đáng phải ở trong bóng tối. Ralph. Thôi bây giờ
chúng ta hãy quỳ gối và cầu nguyện. Xâu chuỗi và sách kinh của Ralph nằm trên
chiếc bàn kế bên; tay run run, Ralph vói lấy tay chạm phải sách kinh lăn rơi xuống
đất ngay cạnh chân của Tổng giám mục Di Continị Tổng giám mục cúi xuống nhặt
lên, bỗng chú ý đến hình dáng một chiếc bông hồng ép trên trang sách, bông hồng
thật nóng bỏng và mịn như giấy lụa, đã ngả sang màu nâu. – Ồ, lạ thật! Tại sao
con lại giữ cái này trong sách kinh? Có phải là một kỷ niệm gia đình?… rất có
thể là của mẹ con? Đôi mắt của Tổng giám mục, có khả năng nhìn xuyên suốt sự giả
dối và che đậy, đang chiếu thẳng vào Ralph, khiến cho Ralph không có thời giờ
giấu đi sự bối rối và xúc động của mình.
–
Thưa không, Ralph nhíu mày trả lời. Con không muốn giữ một kỷ niệm nào của mẹ
con. – Nhưng chắc chắn bông hoa này rất có giá trị nên con mới giữ nó lại với tất
cả tình cảm giữa các trang sách mà con quí nhất. Những cánh hồng này gợi cho
con nhớ lại điều gì? – Một tình yêu trong sáng mà con đã hiến dâng cho Chúa, thưa
Đức cha. – Ta hiểu ngay vì ta biết rất rõ con. Nhưng tình yêu này có mang đến một
đe dọa đối với tình yêu dành cho Giáo hội không? – Thưa không. Chính vì sự nghiệp
của Giáo hội mà con đã chấm dứt tình yêu ấy, chấm dứt vĩnh viễn. Con đã vượt
qua khỏi người phụ nữ ấy rất xa khiến mọi khả năng trở lại đều không thể xảy ra
được. – Thế là ta đã hiểu được nỗi buồn của con! Ralph thân mến, không gì ghê gớm
như con tưởng, đúng là không có gì đáng ghê gớm! Con tồn tại để phục vụ cho nhiều
người và con được nhiều người thương mến. Còn người phụ nữ, với tình yêu gởi gắm
trong kỷ niệm rất xa xưa nhưng còn ngát hương ấy, sẽ không bao giờ bị thiệt
thòi. Vì rằng con đã giữ vẹn mối tình như đã giữ chiếc hoa hồng ấy. – Con không
nghĩ rằng cô ta hiểu được một chút nào như thế. – Ồ, hiểu chứ! Nếu con yêu thương
cô ta như thế, thì với bản chất rất phụ nữ của mình cô ta thừa sức hiểu. Nếu
không, con đã quên người phụ nữ ấy và con đã vứt bỏ đi vật kia từ lâu. – Có những
lúc, chỉ có sự khấn nguyện thật kiên trì mới ngăn cản được con bỏ rơi trách nhiệm
của mình để tìm đến với nàng. Tổng giám mục rời khỏi chiếc ghế bành, đến quỳ gối
bên cạnh người bạn của ông, một con người thanh lịch mà ông đã yêu thương trong
rất ít người ngoài Chúa và Giáo hội của Người. – Con sẽ không bao giờ được rời
bỏ trách nhiệm của mình, con biết rất rõ điều đó phải không Ralph? Con đã thuộc
về Giáo hội và mãi mãi thuộc về Giáo hội. Ở con, thiên chức rất thật và sâu sắc.
Bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện và ta sẽ cầu nguyện thêm cho Hoa Hồng trong những
lần đọc kinh sau này. Chúa ban cho ta rất nhiều những đau buồn và lắm thử thách
trên con đường của chúng ta đi đến chốn vĩnh cửu. Chúng ta phải tập chịu đựng,
ta cũng phải học như con thôi.
CHƯƠNG
28
Vào
cuối tháng tám, Meggie nhận được thư của Luke cho biết anh ta nằm bệnh viện ở
Townsville vì mắc bệnh Weil nhưng không có gì nguy hiểm và không lâu sẽ bình phục.
Lợi dụng lúc này, Luke sẽ nghỉ hè và về rước Meggie cùng đi hồ Eacham trên cao
nguyên Atherton một thời gian, cho đến khi nào Luke có thể trở lại với công việc
của anh. Luke đã mượn một chiếc xe hơi cũ kỹ của ai đó và đến rước Meggie một
buổi sáng rất sớm. Luke gầy, da nhăn và vàng giống như bị ngâm dấm. Hốt hoảng,
Meggie trao vội vali cho chồng rồi bước lên xe ngồi bên cạnh. – Bệnh Weil là gì
Luke? Anh viết thư nói rằng không nguy hiểm gì nhưng nhìn anh, em thấy rõ anh
đã bị bệnh rất nặng. – Ồ! Đó chỉ là một thứ bệnh vàng da thường đe dọa tất cả
các công nhân chặt mía. Hình như chính loài chuột lúc nhúc trong các đám mía đã
mang lại mầm gây bệnh. Anh có sức khỏe nhiều nên không bị bệnh nặng như phần
đông các đồng nghiệp khác. Các bác sĩ đều bảo đảm là anh sẽ hồi phục phong độ
trong một thời gian rất ngắn. Hồ Eacham ở trên đỉnh một vùng cao, rất tình tứ
giữa một cảnh hoang dã. Hai người ở một nhà trọ gia đình, đêm xuống, ra ngoài
hiên nhìn mặt nước yên lặng, Meggie muốn quan sát những con dơi khổng lồ loài
ăn quả, mà người ta gọi là những con chồn baỵ Chúng có tới hàng ngàn; trông gớm
ghiếc và quái dị nhựng thật ra lại rất nhút nhát và hoàn toàn vô hại. Nhìn
chúng bay lên trời giữa những bóng đêm, đúng là một cảm giác gì đó khủng khiếp.
Meggie sung sướng khi ngả mình trên chiếc giường êm ái và mát mẻ. Luke soạn
trong vali của anh ta một hộp dẹp màu nâu, rồi từ trong hộp này, anh lấy ra những
vật nhỏ tròn được anh xếp hàng dài trên bàn ngủ. Meggie với tay lấy một cái
nhìn xem. – Cái này là gì vậy Luke? – nàng hỏi tò mò. – Một capot Anh tức bao
cao su , anh giải thích mà quên đi là cách đây hai năm anh tự nhủ sẽ không nói
thật cho Meggie biết anh áp dụng phương pháp ngừa thai. Anh sử dụng một cái trước
khi gần em. Nếu không chúng ta có thể có con, lúc đó đổ vỡ cả kế hoạch mua
trang trại – Luke nói. Ngồi bên mép giường trần truồng, Luke trông rất gầy, thấy
rõ xương sườn. Nhưng hai con mắt xanh của anh vẫn sinh động. Anh đưa tay ra để
lấy lại bao cao su mà Meggie vẫn còn cầm.
–
Chúng ta đã gần đạt mục đích Meggie, rất gần rồi! Theo anh tính chỉ cần có thêm
năm ngàn bảng là chúng ta có thể mua một trang trại đẹp nhất ở miền tây
Charters Towers. Meggie nói với chồng: – Trong trường hợp này, ngay từ bây giờ
anh có thể coi như trang trại ấy đã thuộc về anh. Em có thể viết thư cho Đức
cha De Bricassart để yêu cầu ngài cho chúng ta mượn số tiền ấy. Đức cha sẽ
không đòi chúng ta trả tiền lời đâu. – Em không nên làm gì hết! Luke hét lên.
Trời ơi, em không có chút tự ái nào sao Meggie? Chúng ta làm lụng để có được những
gì thuộc về chúng ta. Không có vấn đề vay mượn! Anh chưa bao giờ mượn của ai một
đồng xu và anh nhất quyết không làm điều đó. Meggie chỉ nghe được tiếng còn tiếng
mất và nhìn Luke qua một màn sương mù màu đỏ chói mắt. Từ xưa đến nay, Meggie
chưa bao giờ cảm thấy giận dữ như lần này. Đồ đểu giả, ích kỷ, láo khoét! Tại
sao hắn lại dám cư xử như thế với nàng, tước đoạt cái quyền có con của nàng, cố
tình làm cho nàng tin rằng hắn muốn trở thành một nhà chăn nuôi nhưng thật ra hắn
đã chọn con đường riêng sống với Arne Swenson và những vườn mía. Nhưng Meggie
đã khéo léo đè nén sự cáu kỉnh và chú ý vào cái vật cao su tròn nàng cầm trong
tay. – Anh hãy nói cho em nghe về… những cái bao cao su này. Vì sao chúng
ngăn chặn có con? Luke đến đứng sát phía sau lưng Meggie. Sự đụng chạm của hai
thân thể trần truồng khiến cho nàng rùng mình vì bị kích thích – Luke nghĩ như
vậy, nhưng thực tế thì ngược lại vì Meggie kinh tởm anh ta. – Chẳng lẽ em lại dốt
đến thế? – Vâng, Meggie nói dối. Những lời giải thích của Luke khiến cho Meggie
nổi giận dữ dội. Thế đấy, hắn đã ngăn chặn cái điều mà lâu nay Meggie chờ đợi.
Đồ lưu manh! Luke không hiểu chút nào tâm trạng của Meggiẹ Hắn tắt đèn, ôm nàng
kéo lên giường và liền đó mò mẫm tìm cái bao cao su; Meggie nghe rõ tiếng sột
soạt mà nàng đã từng nghe một lần ở khách sạn Dunny trong đêm tân hôn; bây giờ
nàng đã hiểu rõ Luke đang làm gì. Thằng lưu manh! Phải dùng kế nào đây để phá vỡ
âm mưu của Luke? – Tại sao em không tỏ ra nhiệt tình hơn với anh hả? – Tại sao
à? Hai năm rồi, Luke không có thời giờ và cả sức lực cống hiến cho trò chơi ái
tình.
Bây
giờ nằm bên Meggie, vứt bỏ bao cao su trước đây thường dùng đến Luke thích thú
đón nhận những cảm giác tiếp xúc của da thịt . Càng lúc Luke càng bị kích
thích. Ngay lúc đó một ý nghĩ vụt đến trong đầu Meggie. Nàng quyết định chủ động.
Luke sực tỉnh mở mắt. Anh ta tìm cách đẩy Meggie ra nhưng cảm giác đến với anh
không còn gì ngăn chặn đã trở nên vô cùng kỳ diệu bởi anh chưa bao giờ gần một
người phụ nữ mà không dùng phương tiện phòng ngừa . Sự kích thích lên đến mức
anh không còn tự chủ được nữa, thay vì đẩy Meggie ra, anh càng ghì chặt nàng
vào. Trong bóng đêm, Meggie mỉm cười, hài lòng.
CHƯƠNG
29
rở
về Himmelhoch, Meggie chờ đợi và hy vọng. Cầu xin Chúa ban cho một đứa con! Một
đứa con là giải quyết tất cả. Lời cầu nguyện có kết quả. Khi Meggie báo cho
Anne và Ludwig tin này, cả hai rất vui mừng, nhất là Ludwig. Chính ông đã lo liệu
đầy đủ quần áo tã lÃn ch³t, còn Anne thì sửa soạn căn phòng riêng cho đứa bé sẽ
chào đời. Nhưng thật xui xẻo, trong khi mang thai sức khỏe của Meggie không được
tốt, có thể do thời tiết nóng bức, cũng có thể do buồn lo, Meggie không hiểu được
tại sao như vậy. Tình trạng khó chịu ấy kéo dài cả ngày. Không những thế,
Meggie còn có dấu hiệu tăng huyết áp. Theo bác sĩ Smith, tình trạng của Meggie
nguy hiểm. Lúc đầu ông gợi ý nên đưa nàng vào nằm trong bệnh viện cho đến khi
sinh nhưng sau đó nghĩ đến hoàn cảnh sống một mình của Meggie xa chồng và không
có bạn bè, nên bác sĩ quyết định để nàng ở lại vì như thế thì Ludwig và Anne có
thể chăm sóc cho nàng tốt hơn. – Nhưng phải ráng gọi ông chồng về thăm cô ấy!
Bác sĩ cằn nhằn nói với Ludwig. Meggie viết ngay bức thư gửi Luke bái tin nàng
đã có thai, và như mọi người phụ nữ nàng tin tưởng rằng dù không muốn nhưng khi
có một đứa con thì Luke cũng sẽ hết sức vui. Nhưng bức thư trả lời của Luke chấm
dứt mọi ảo tưởng. Anh ta giận dữ. Đối với cá nhân anh ta khi làm cha, nghĩa đơn
giản là phải nuôi thêm một miệng ăn. Thái độ của Luke là viên thuốc đắng mà
Meggie vẫn nuốt vì không có sự chọn lựa khác hơn. Meggie cảm thấy mình bệnh hoạn,
bất lực và không được thương yêu. Kể cả đứa con đang trong bụng mẹ cũng không
thương nàng và nó không hề mong muốn được sinh ra. Meggie nghe bên trong những
phản kháng yếu ớt của một con người nhỏ bé từ chối có mặt. Nếu còn sức để chịu
đựng một chuyến đi bằng tàu hỏa dài ba ngàn cây số thì Meggie sẽ không do dự trở
về với gia đình. Cuối tháng tám, bốn tuần trước khi Meggie trút gánh nặng, nàng
bắt đầu thù ghét đứa con mà thoạt đầu nàng đã hết sức mong muốn và chờ đợi. Có
lúc, Meggie nhận ra tất cả chỉ là thảm họa; cố gắng gạt đi lòng tự ái dị hợm của
mình và tìm cách cứu vãn những gì còn lại của những tan vỡ. Cả hai đã lấy nhau
vì những suy nghĩ không đúng: Luke nhắm túi tiền của Meggie, còn nàng vì hờn dỗi,
vừa muốn thoát khỏi Ralph nhưng đồng thời tìm cách giữ lại hình ảnh của Ralph.
Nhưng thật ra, trong khi không cảm thấy oán giận Luke thì càng lúc Meggie càng
cảm thấy căm ghét Ralph. Mặc dù Ralph đã tỏ ra thông cảm và cư xử với nàng đúng
hơn Luke nhiều. Chưa bao T
giờ
Ralph có ý nghĩ làm cho nàng phải nhớ nhung đến ông; Ralph chỉ muốn mình được
nhìn dưới một góc độ tu sĩ và một người bạn. Ngay cả trong hai lần Ralph ôm hôn
nàng, trách nhiệm về những cái hôn ấy vẫn thuộc về Meggiẹ Thế thì tại sao lại hờn
dỗi Ralph làm gì? Tại sao nàng lại căm ghét Ralph chứ không phải Luke? Tại sao
lại trách cứ Ralph về sự thôi thúc điên rồ đã đẩy nàng đi đến quyết định lấy
Luke? Meggie có cảm tưởng nàng dã phản bội chính mình và phản bội với cả Ralph.
Không thể lấy Ralph làm chồng, để được sống chung và có con với ông ấy thì có
sao đâu? Ralph trước sau vẫn là con người nàng yêu thương, đáng lý ra nàng
không nên đi tìm một ai khác thay thế. Dù hiểu ra những sai lầm của mình,
Meggie vẫn không xoa dịu được những thương đau. Cuối cùng thì chính là Luke.
Làm sao nàng có thể vui sướng trong ý nghĩ đứa con ấy không hề mong muốn được
chào đời? Thật tội nghiệp cho đứa bé. Có thể, khi ra đời, đứa bé sẽ được thương
yêu chỉ vì đó là một con người. Nhưng nếu là con của Ralph thì sẽ thế nào? Chuyện
không thể có. Ralph đã phục vụ cho một thiết chế nhất định biến con người ông ấy
hoàn toàn thuộc về họ, kể cả cái phần họ không cần đến. Đức Mẹ, đòi hỏi ở Ralph
một hy sinh cho quyền lực, phủ định và hủy hoại con người của Ralph. Nhưng thôi
một ngày nào đó, Giáo hội sẽ trả giá cho tham vọng của mình, một ngày nào đó sẽ
không còn có những linh mục như Ralph, vì rằng những người này sẽ đánh giá đúng
mức tính nam giới của họ để hiểu rằng điều mà Giáo hội đòi hỏi là một sự hy
sinh vô ích, không có một chút ý nghĩa nào cả. Đột nhiên, Meggie đứng lên, đi tới
đi lui trong phòng nghỉ, tại đó Anne đang đọc một quyển sách cấm của Norman
Lindsay. – Anne, hãy gọi ngay bác sĩ Smith. Em sắp sinh. – Chúa ơi! Em hãy lên
nằm ngay ở phòng hai vợ chồng chị Bác sĩ Smith đến trên chiếc xe cũ kỹ, có người
nữ hộ sinh đi theo. – Chị có báo cho ông chồng hay chưa? Vừa bước lên bậc thềm,
bác sĩ Smith vừa hỏi Annẹ – Tôi đã đánh điện cho anh ấy. Meggie đang nằm trong
phòng của tôi, ở đó rộng rãi hơn. Anne khập khiễng theo sau bác sĩ vào phòng.
Meggie nằm trên giường, mắt mở to và không thấy có dấu hiệu đau đớn nào ngoại
trừ hai bàn tay bị giật và thân người co rút lại. Nàng ráng ngước nhìn Anne mỉm
cười. Anne nhận thấy trong đôi mắt nhìn chứa đựng sự sợ hãi.
–
Em rất vui mừng được ở lại nhà, Meggie nói. Mẹ em chưa bao giờ đến bệnh viện để
sinh. Em có nghe ba em kể, mẹ em đã quá đau đớn khi sinh Hal nhưng rồi cũng vẫn
vượt qua cái chết. Nhất định em cũng thế. Phụ nữ dòng họ Cleary chịu đau rất giỏi.
Vài giờsau, bác sĩ trở ra gặp Anne ngoài hiên. – Cơn đau bụng của cô ấy kéo dài
rất lâu và có khó khăn đấy. Thường sinh con đầu lòng đều gặp rắc rối đôi chút,
nhưng trong trường hợp này thì nguy hiểm. Cô ấy rất cố gắng nhưng vẫn chưa sinh
được. Ở bệnh viện Cairns có thể người ta đã áp dụng thủ thuật mổ để đưa đứa bé
ra nhưng tại đây thì không thể làm được. Chính cô ấy phải đưa đứa bé ra một
mình. – Meggie vẫn tỉnh đấy chứ? – Vâng! Một cô gái rất dũng cảm. Không một tiếng
rên. Theo kinh nghiệm của tôi, những người phụ nữ dũng cảm nhất thường lại sinh
nở khó khăn nhất. Cô ấy luôn miệng hỏi tôi Ralph đã tới chưa. Tôi phải nói dối
với cô ta rằng nước sông Johnstone dâng lên rất cao chưa qua được. Nhưng hình
như chồng của cô ấy tên Luke cơ mà. – Vâng, đúng thế. – Thế thì… có lẽ vì thế
mà cô ấy luôn hỏi đến Ralph. Luke không mang lại cho cô ấy sự an ủi phải không?
– Đó là một thằng không ra gì! Anne đứng nghiêng người, hai tay nắm chặt lan
can. Một chiếc xe tắc xi vừa tách khỏi con lộ Dunny rẽ vào con đường đến
Himmelhoch. Con mắt rất tỏ của Anne giúp chị nhận ra ở băng sau xe là một người
đàn ông tóc đen. Chị kêu lên mừng rỡ. – Tôi không tin vào mắt mình nhưng hình
như Luke đã nhớ rằng hắn có một người vợ. Bác sĩ Smith nói: – Tốt hơn hết là
tôi nên trở lên phòng với Meggie để cho chị đối đầu với hắn, Anne. Tôi sẽ không
nói gì hết với Meggie đề phòng trường hợp không phải chồng cô ấy. Còn nếu đúng
thật là Luke chị rót cho hắn một tách trà, còn rượu thì dành lại sau; rồi hắn sẽ
cần đến. Chiếc tắc xi dừng lại. Trước sự kinh ngạc của Anne, anh tài xế mở cửa
và vội vàng vòng mở cửa xe phía sau để người khách bước xuống. Joe Castiglione,
chủ nhân chiếc xe tắc xi duy nhất ở Dunny, ít khi tỏ ra lịch sự như thế. – Thưa
Đức cha, đã đến Himmelhoch. Anh ta vừa nói vừa rạp người xuống. Một người đàn
ông mặc áo thụng dài đen với thắt lưng màu đỏ thắm bước ra. Đúng lúc người này
quay mặt lại, Anne hoa mắt lên, trong một giây phút tưởng rằng cái anh chàng
Luke đang
bày
một trò gì đó đùa với mình. Nhưng chị nhận ra ngay con người này hoàn toàn khác
Luke, lớn hơn Luke ít nhất mười tuổi. – Xin lỗi có phải bà Mueller? Người khách
hỏi với nụ cười trên môi, cái nhìn thật sáng và xa xôi. – Vâng, tôi là Anne Mueller.
– Tôi xin được tự giới thiệu, Tổng giám mục Ralph, Khâm mạng Tòa thánh tại Úc.
Tôi được biết có một phụ nữ, bà Luke O” Neill hiện ở nhà bà. – Vâng, thưa ông.
Ralph? Ralph? Có phải chính Ralph mà Meggie đã gọi tên? – Tôi là một trong những
người bạn thân nhất của bà Luke O” Neill. Tôi có thể gặp mặt bà O” Neill được
không thưa bà? – Thưa… tôi tin rằng chị Luke sẽ rất vui mừng, Tổng giám mục.
Trong hoàn cảnh bình thường hơn thì… nhưng lúc này, Meggie đang sắp sửa sinh
và chị ấy đang trải qua một cơn đau dữ dội. – Tôi biết trước có chuyện gì đó
không lành! Ông kêu lên. Tôi linh cảm điều đó từ lâu và gần đây sự lo âu của
tôi trở thành một thứ ám ảnh. Tôi phải đến tận nơi và nhìn tận mắt. Tôi xin bà
cho tôi được đến bên chị ấy. Nếu chị cần nại một lý do, bà cứ nói tôi là tu sĩ.
Anne không hề có ý định cấm đoán vị Tổng giám mục vào phòng của Meggie. – Thưa
Đức cha đi theo tôi. Ralph đi ngang qua vị bác sĩ và người nữ hộ sinh như không
hề nhìn thấy họ, đến quỳ gối bên giường, đưa tay về hướng Meggie. – Meggie?
Meggie vượt thoát ra khỏi cơn ác mộng mà nàng đang vật lộn và nhận ra gương mặt
thương yêu, đang cúi sát xuống mặt mình, tóc đen và dày với hai chùm màu trắng
hai bên thái dương nổi bật lên trong ánh sáng lờ mờ. Những nét thanh tú và quý
phái, hơi khắc khổ, biểu hiện rõ hơn tính kiên nhẫn và đôi mắt xanh đắm chìm
trong mắt nàng tràn đầy tình yêu nóng bỏng và chờ đợi. Làm sao Meggie lại có thể
lầm lẫn Luke với Ralph? Không một ai hoàn toàn giống như chàng, không ai khác
có thể thuộc về nàng; Meggie đã phản bội lại điều mà nàng đã cảm nhận ở Ralph.
Luke là cái bề đục của tấm gương, còn Ralph rực sáng như mặt trời và đồng thời
lại rất xa xôi. Trời ơi, sung sướng làm sao khi được nhìn thấy Ralph. – Đức cha
ơi, hãy giúp con – nàng nói. Ralph cầm tay Meggie hôn say đắm, rồi áp bàn tay ấy
vào má mình. – Bao giờ cha cũng sẵn sàng, con biết điều đó, Meggie của cha.
–
Hãy cầu nguyện cho con và đứa bé. Nếu có một ai đó có thể cứu con và con của
con thì người đó chính là Đức cha. Đức cha gần Chúa hơn chúng con rất nhiều.
Không ai ghét chúng con, chưa bao giờ có ai ghét chúng con, kể cả Đức cha cũng
thế. – Luke đâu rồi? – Con không biết và cũng chẳng cần đến anh ta. Meggie nhắm
mắt lại, những ngón tay vẫn bám chặt vào tay của Ralph nhất định không buông
ra. Nhưng bác sĩ đã đến vỗ nhẹ lên vai của Ralph. – Đức cha, tôi nghĩ đã đến
lúc Đức cha phải rời phòng này. – Nhưng nếu sự sống còn của người này bị đe dọa,
bác sĩ sẽ gọi tôi chứ? – Tôi sẽ gọi ngay. Ralph cùng Anne đi ra khỏi phòng.
Ludwig từ vườn mía về. Anh tỏ ra hiểu biết hơn vợ, quỳ một gối xuống đất và hôn
chiếc nhẫn của Đức Khâm mạng. – Như thế Ngài là Ralph? – Anne chống nạnh dựa
vào một cái bàn làm bằng tre, hỏi. – Vâng, tôi là Ralph. – Từ khi Meggie rơi
vào những cơn đau, cô ấy cứ gọi một người nào đó tên Ralph không dứt. Thú thật
lúc ấy tôi rất tò mò. Tôi nhớ rất rõ trước đây cô ấy chưa bao giờ đề cập đến
cái tên Ralph lần nào. Trong trường hợp nào Đức cha đã quen biết Meggie? Và bao
lâu rồi? – Tôi biết Meggie khi cô ấy mới mười tuổi, chỉ ít ngày sau khi cô ấy
đáp tàu từ Tân Tây Lan đến Úc. Nói cho đúng, tôi có thể khẳng định tôi đã biết
Meggie qua những cơn bão lụt, hỏa hoạn, những lúc xúc cảm tột đỉnh, đi qua cái
sống và cái chết. Tóm lại, tất cả những gì mà chúng tôi đều phải chịu đựng.
Meggie là tấm gương mà tôi bắt buộc phải nhìn vào đó để thấy thân phận của con
người tôi. – Ngài yêu Meggie? Anne buông câu ấy với giọng ngạc nhiên. – Mãi mãi
vẫn thế. – Một bi kịch cho cả hai. – Tôi mong rằng chỉ là bi kịch cho tôi. Chị
hãy kể cho tôi nghe về cô ấy. Chuyện gì đã xảy ra từ khi cô ấy lấy chồng? Nhiều
năm rồi tôi đã không gặp lại cô ấy, nhưng tôi luôn có những lo âu về Meggie.
Nghe xong câu chuyện, Ralph thở dài nhìn cây cọ đong đưa theo gió rồi nói: – Thế
thì chúng ta phải giúp Meggie vì Luke đã chối từ. Nếu thật sự Luke bỏ rơi
Meggie thì cô ấy sẽ được yên thân hơn khi về ở Drogheda. Tôi biết hai anh chị
không muốn mất Meggie nhưng
hãy
vì Meggie mà thuyết phục cô ấy về với gia đình. Ngay khi trở về Sydney, tôi sẽ
gửi một ngân phiếu cho hai anh chị nhờ trao lại cho Meggie, như thế tránh cho
cô ấy bị khó chịu vì tiếc tiền của anh mình. Một khi trở về nhà, cô ấy muốn giải
thích với gia đình thế nào tùy ý. Cầu Chúa, đứa bé được sinh ra nhanh chóng. Thế
nhưng đứa bé chỉ ra đời hai mươi bốn giờ sau, lúc Meggie đã hoàn toàn kiệt sức
và đã chịu đựng tận cùng đau đớn. Đứa bé – con gái – thật nhỏ bé và yếu đuối
làm cho Tổng giám mục cảm thấy đau nhói trong lòng. Meggie! Meggie của ta.
Meggie đau khổ, bị giày vò. Ta mãi mãi yêu em, nhưng ta không thể cho em điều
mà Luke đã cho em, kể cả cái thân xác bị cấm đoán này. Khi chỉ còn lại hai người,
Ralph hỏi Meggie: – Em đặt cho con tên gì? – Justine. – Một cái tên rất đẹp. Nhưng
tại sao em chọn tên đó? – Em đã đọc thấy đâu đó mà em rất thích. – Em có vui sướng
khi có con không, Meggie? Trên gương mặt mệt mỏi của Meggie chỉ còn đôi mắt là
sống động, dịu dàng, chứa đựng một thứ ánh sáng phớt đục, không hận thù nhưng
cũng không có tình yêu. – Có chứ, em rất sung sướng có đứa con này. Vâng em rất
vui sướng vì em đã làm tất cả để có nó… Nhưng trong khi em mang nó trong bụng,
em không cảm thấy chút gì là vì nó và nó cũng không cần em. Em không tin rằng
Justine thật sự thuộc về em, cũng không thuộc về Luke hay bất cứ ai. Một hồi
lâu Ralph nói: – Anh phải đi, Meggie ạ. Ralph nói nhỏ. Đôi mắt màu nâu đanh lại,
sáng lên. Nàng bĩu môi chua chát. – Em đã chờ đợi trước điều đó! Thật kỳ lạ,
hình như những người đàn ông dính dấp đến cuộc đời em đều luôn luôn như thế.
Ralph nghe đau trong lòng. – Đừng chua cay, Meggie. Anh không ra đi để lại em
trong một tình trạng như thế này. Dù đã xảy ra chuyện gì cho em trong quá khứ,
em luôn giữ sự dịu dàng, đó là điều quí nhất của em đối với anh. Đừng thay đổi,
không nên trở thành sắt đá vì tất cã những gì em đã phải chịu đựng. Anh thật
đau
xót khi nghĩ đến chuyện Luke không màng đến đây, nhưng em cũng đừng đánh mất đi
sự dịu dàng đó. Nếu không em không còn là Meggie của anh. Nàng tiếp tục nhìn
Ralph thiết tha lẫn cả sự oán giận. – Không đâu Ralph, em van anh! Em không phải
là Meggie của anh đâu, em chưa bao giờ như thế cả! Anh không cần em và anh đã đẩy
em vào tay của Luke. Anh coi em là gì? Một thứ nữ thánh hay một thứ nữ tu? Này
anh nhé, không phải như vậy đâu. Em là một con người như mọi người và anh đã
làm hỏng đời em. Trong suốt bao năm qua, em đã yêu anh và không chấp nhận ai
khác ngoài anh, em đã chờ đợi… Em đã làm mọi cách để quên anh đi. Cuối cùng
em đã lấy một người chồng mà em tưởng rằng có phần nào đó giống anh. Nhưng rồi
anh ta cũng chẳng màng, chẳng cần đến em. Em có đòi hỏi quá đáng chăng với một
người đàn ông mà mình muốn được yêu thương? Luke không xấu xa đâu, cũng không
đáng ghét. Thật ra anh ta chỉ là một người đàn ông. Các anh đều như thế, những
con bướm to đầy lông lá, đang bị ngọn lửa quái lạ khuất sau một tấm kiếng trong
suốt thu hút mà các anh không hề thấy. Nếu cuối cùng các anh tìm được con đường
vào tận nơi, các anh sẽ đâm đầu vào ngọn lửa, té xuống, chết thiêu. Trong khi
đó thì ngoài kia trong cái mát dịu dàng của màn đêm, có đủ tất cả các thứ để
nuôi sống các anh, có tình yêu và những con bướm nhỏ. Nhưng đàn ông các anh có
thấy cái đó không, có muốn điều đó không? Không! Các anh quay trở lại với ngọn
lửa, các anh cứ đâm đầu vào đó cho đến khi bị cháy và chết đi. Ralph không biết
trả lời thế nào với Meggie bởi rằng Ralph đã khám phá ra một khía cạnh khác thuộc
về bản chất của Meggie mà trước đây ông hoàn toàn không biết. Cái đó có từ bao
giờ? Phải chăng nó đã hình thành tiếp theo những thất vọng mà nàng đã trải qua
sau khi Ralph bỏ rơi nàng? Meggie lại có thể thốt ra những điều đó ư? Ralph
không đủ can đảm để nghe rõ từng lời, lòng Ralph hoang mang, mặc cảm phạm tội
xâm chiếm tâm hồn. – Em có nhớ hoa hồng mà em đã tặng cho anh vào buổi chiều
anh rời khỏi Drogheda? Ralph âu yếm hỏi Meggie. – Vâng, em còn nhớ. Tiếng nói của
nàng mất hẳn sức sống, ánh mắt mờ đi vì đau buồn. Ãnh mắt đó chiếu thẳng vào
Ralph nhưng tâm hồn thì trống rỗng, vô vọng. Mắt Meggie lờ đờ như đôi mắt của
Fiona mẹ nàng.
–
Anh vẫn giữ hoa hồng trong sách kinh của anh. Cứ mỗi lần nhìn thấy hoa hồng ấy
là anh nhớ đến em. Meggie ơi! Anh yêu em! Em là đóa hồng của anh, hình ảnh đẹp
nhất của con người và là tâm tưởng của đời anh. Đôi môi của Meggie trề ra một lần
nữa, mắt long lên giận dữ, có cả sự căm tức. – Một hình ảnh, một tâm tưởng! Một
hình ảnh con người và một tâm tưởng – Giọng nàng trêu chọc – Vâng đúng vậy. Đó
là tất cả những gì mà em có trong mắt anh. Anh đúng là một thằng ngốc lãng mạn
và mơ mộng, Ralph! Anh không có một ý niệm nào hơn về cuộc sống so với con bướm
lao vào ngọn lửa! Không có gì ngạc nhiên khi anh đã chọn làm linh mục! Anh hoàn
toàn không có khả năng sống một cuộc sống bình thường nếu anh là một người như
mọi người, một người như Luke! Anh nói anh yêu em, nhưng không có một ý niệm
nào về tình yêu. Anh chỉ nói ra những lời lẽ nghe thật kêu mà anh học được! Em
không hiểu nổi tại sao đàn ông lại không gạt hẳn đàn bà ra khỏi cuộc đời mình
đi khi mà điều đó chính là sự mong muốn của họ. Đàn ông các anh nên tìm ra một
cách cưới gả với nhau đi, các anh sẽ sống hạnh phúc tuyệt diệu với nhau đấy. –
Meggie, anh van em, đừng nói nữa! – Thôi! Anh hãy đi đi! Em không muốn gặp mặt
anh nữa. Nhưng anh đừng quên điều này: khi nhắc đến những hoa hồng yêu quí của
anh, Ralph… Những hoa hồng ấy đều có những gai rất dữ, những gai rất nhọn sẽ
đâm vào tim anh. Ralph rời khỏi phòng mà không quay nhìn lại. Luke chẳng cần trả
lời bức điện của Meggie báo tin anh đã trở thành cha của một đứa con gái nặng
hai kilô mang tên Justine. Luke vẫn theo đuổi cuộc đời rày đây mai đó. Nhiều lần
Meggie viết thư cho Luke nhưng không được trả lời. Luke cũng không về thăm con.
Đứa bé dần dần mạnh khỏe hơn và đã nhanh chóng vượt qua những thử thách gay go
lúc chào đời. Vào tháng tư, Justine không còn thường xuyên khóc la như trước
đây nữa và bắt đầu biết vui chơi một mình trong nôi. Một hôm, đầu tháng mười
hai, Anne tìm gặp Meggie đang ở ngoài hiên; chị ngồi xuống bên cạnh và quan sát
Meggie. Trời ơi! Sao Meggie xanh xao và đờ đẫn thế! Ngay cả mái tóc màu vàng
hung rực rỡ trước đây bây giờ cũng rủ rũ. – Meggie, chị không biết mình làm như
thế có đúng không nhưng việc đã rồi. Và chị mong rằng em hãy nghe chị trình bày
trước khi trả lời không. Meggie nhìn chiếc cầu vồng trên nền trời xám đục và mỉm
cười. – Chuyện gì mà trịnh trọng thế chị? Chị cứ nói đi.
–
Luđie và chị rất lo âu về tình trạng sức khỏe của em. Em chưa bình phục lại sau
khi sinh Justine, trong khi đó mùa mưa sắp đến, chị e ngại sức khỏe của em mỗi
ngày sẽ tệ hơn. Em không ăn và mỗi ngày một gầy thêm. Chị lo rằng thời tiết ở
đây không phù hợp với em. Do đó cách đây mười lăm ngày chị có viết thư cho một
người bạn là chủ hãng du lịch và chị đã đăng ký cho em đi nghỉ. Đừng phản đối
vì sợ tốn kém, việc đó không ảnh hưởng gì đến tiền dành dụm của Luke và em. Anh
chị đã nhận được một ngân phiếu với một số tiền lớn của Tổng giám mục Bricassart
gởi cho em và một ngân phiếu khác của Bob, anh trai em gởi. Chị có cảm tưởng là
cả nhà em đang mong đợi em trở về Drogheda. Anh chị đã thuê sẵn một cottage ở đảo
Matlock trong hai tháng, đầu tháng giêng đến đầu tháng ba, Luđie và chị sẽ lãnh
phần chăm sóc Justine. Cầu vồng đã lặn, mặt trời cũng thế; lại sắp sửa mưa. –
Chị Anne, nếu không có chị và anh Luđie với bao nhiêu tình cảm mà anh chị dành
cho em trong ba năm qua có lẽ em đã điên mất rồi. Chị biết điều đó mà. Có những
đêm em thức dậy và tự hỏi nếu Luke gởi em ở một nhà nào khác, gặp những người
không tốt thì em ra sao. Anh chị đã lo lắng cho em hơn cả Luke. Mưa đã kéo đến
giáp ranh những khu trồng mía. – Chị nói đúng, em cảm thấy trong người không khỏe.
Meggie nói tiếp. Từ khi có Justine, em chưa bao giờ được trở lại như xưa. Chị
Anne ơi! Em rất mệt mỏi và chán nản! Em không phải là một người mẹ tốt đối với
con mặc dù bổn phận đòi hỏi. Chỉ do ý muốn của em mà nó ra đời chứ Justine có
đòi hỏi điều đó đâu. Em đã quá chán nản vì Luke đã không cho em cơ hội mang lại
hạnh phúc cho anh ấy. Luke từ chối sống chung với em và không để cho em xây dựng
một tổ ấm, anh ấy cũng không muốn có con. Em không yêu Luke. Em chưa bao giờ
yêu anh ấy như một người phụ nữ yêu chồng. Rất có thể anh ấy đã đoán biết điều
đó ngay lúc đầu. Biết đâu Luke sẽ hành động khác hơn nếu em yêu thương anh ấy.
Vì vậy làm sao em có thể oán hận Luke được? Em mới là người duy nhất đáng lên
án. – Tổng giám mục là người em đã yêu phải không? – Vâng, từ cái thuở em còn
là một cô bé. Em luôn cư xử tàn nhẫn với Ralph mỗi khi ông ấy đến. Tội nghiệp
Ralph! Em không có quyền cư xử như thế với Ralph, vì rằng chưa bao giờ ông ấy tỏ
ra quyến rũ em. Em mong rằng ông ấy sẽ có thời giờ nhận ra rằng sở dĩ em có
thái độ như thế vì em bị bệnh, kiệt sức và vô cùng khổ sở. Em chỉ nghĩ đến một
điều giá như đứa bé đó là con của ông ấy nhưng thực tế thì không thể xảy ra,
không bao giờ có thể xảy ra. Trời ơi! Thật là bất công! Các mục sư Tin Lành có
thể lấy vợ, tại sao các linh mục Công giáo lại không? Chị đừng
nói
với em rằng các mục sư chăm lo cho con chiên không tốt bằng các linh mục, em
không tin đâu. Em đã từng gặp những linh mục không có lòng và ngược lại những mục
sư tuyệt vời. Chỉ tại vì linh mục phải sống độc thân mà em đành xa Ralph, lập một
gia đình, xây dựng cuộc đời với một người khác. Em thấy cần phải nói với chị điều
này, Anne. Em hành động như thế là một tội lỗi, tội lỗi ấy cũng xấu xa như tội
lỗi của Ralph nếu không giữ lời khấn của mình nữa. Em nghĩ nó còn hèn hạ hơn.
Em oán giận Giáo hội lên án tình yêu của em dành cho Ralph hoặc Ralph dành cho
em. – Em hãy đi xa một thời gian, Meggie ạ. Hãy nghỉ ngơi, ăn ngủ và đừng ray rứt
nữa. Mưa đột ngột dừng lại như nó đã đột ngột trút xuống. Mặt trời xuất hiện, cầu
vồng lóng lánh. Ngọn núi Bartle Frere dần dần hiện ra, khoác lên màu áo hoa
đính với nền mây mỏng như tơ. – Em sẽ đi nghỉ, Meggie nói. Em rất mang ơn anh
chị đã lo cho em. Nhưng chị có tin rằng Justine sẽ không gây phiền hà cho anh
chị không? – Không đâu, Luđie đã lo trước mọi thứ rồi. Người giúp việc trước của
chúng tôi là Anna Maria, chị ta có một em gái tên là Annunziata, mười lăm tuổi.
Anh Luđie đã gọi Annuziata đến chăm sóc cho Justine. – Đảo Matlock ở đâu hở chị?
– Gần đèo Whitsunday, trên cửa con sông Great Barrier Reef. Ở đó rất yên tịnh
và ấm cúng. Chị có cảm tưởng đó là một nơi dành riêng cho những tuần trăng mật.
Em hiểu chị muốn nói gì chứ… Nhưng mà ở rải rác khắp nơi, khuất sau những lùm
cây chứ không phải một khách sạn. Vào thời gian em đi nghỉ, đảo hoàn toàn vắng
người. Ngày cuối cùng của năm 1931, Meggie lên tàu hỏa đi Townsville bắt đầu những
ngày nghỉ dễ chịu vì đã trút bỏ được phía sau cái mùi rỉ đường của vùng Dunny.
Townsville là một vùng dân cư quan trọng nhất ở Bắc Queensland, có khoảng vài
ngàn dân sống trong những nhà sàn nhỏ bằng gỗ, sơn màu trắng. Để đến đảo
Matlock nơi nghỉ mát sau này, sau khi rời tàu hỏa còn phải vượt qua một vùng biển.
Tàu lướt êm đềm trên mặt nước trong như gương. Giữa hai cơn gió xoáy, không khí
dịu xuống, biển có vẻ mệt mỏi. Dù mới gần trưa, Meggie đã đi nằm và thiếp đi
trong một giấc ngủ không mộng mị cho đến khi người tiếp viên đánh thức nàng dậy,
lúc ấy là sáu giờ sáng hôm sau. Anh ta mang vào cho Meggie một tách trà nóng và
bánh ngọt.
Trên
boong tàu, Meggie đã khám phá một nước Úc mới, hoàn toàn khác. – Những hòn đảo
nhấp nhô trên mặt nước là những đảo san hô ngầm – một người trong thủy thủ đoàn
giải thích như thế với Meggie. Một tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, tàu rẽ
sóng từ từ cặp bến. Người đàn ông lớn tuổi đứng sẵn chờ Meggie, giúp nàng mang
hành lý lên chiếc ô tô duy nhất hết sức sang trọng của đảo này. – Thưa bà O”
Neill, bà đi đường bình yên chứ? ông ta chào Meggie. Tôi là Rob Walter. Tôi hy
vọng rằng ông nhà sẽ đến nay mai. Ở Matlock vào mùa này không có nhiều người lắm,
đây là một điểm du lịch mùa đông, đảo rộng sáu kilomet, chiều dài gấp đôi như
thế. Xe đi ngang qua một tòa nhà trắng, có vẻ hỗn độn. – Đây là cửa hàng lớn ở
đảo. Người lái xe giới thiệu với giọng đầy tự hào như chính mình là ông chủ.
Tôi ở đó với bà chủ. Bà ta sẽ không thích chút nào khi thấy một người phụ nữ một
mình đến đảo, tôi đoan chắc như thế. Bà ta cho rằng tôi có thể bị quyến rũ. Rất
may là văn phòng du lịch ở đây có nói rõ là bà đòi hỏi một sự yên tịnh hoàn
toàn, thế là thêm một điều nữa làm cho bà chủ yên tâm. Tôi đã chọn cho bà một
nhà sàn xa nhất và không có bóng một người nào ở đó. Nếu thích, bà có thể đi dạo
không cần mặc quần áo mà không sợ ai dòm ngó. Nếu bà có cần điều chi bà chỉ nhấc
điện thoại lên và tôi sẽ mang đến ngay cho bà. Nhà nghỉ mát này có ba phòng; trước
mặt là bãi cát trắng hình vòng cung, hai đầu nhô ra hai mũi nhọn của ngọn đồi.
Bên trong nhà trang hoàng giản dị nhưng đầy đủ tiện nghi, một tủ lạnh nhỏ, một
điện thoại và một radio. Đầy đủ hơn so với Drogheda và Himmelhoch. Dĩ nhiên do
khách du lịch đến đây thường từ Sydney hoặc Melbourne, những tiện nghi tối thiểu
như thế không thể thiếu được thưa bà. Trong tuần lễ đầu, điều quan tâm duy nhất
đối với Meggie là ăn và ngủ. Bây giờ Meggie mới nhận ra là mình đã kiệt sức đến
mức nào. Cứ mỗi lần đặt lưng xuống chiếc giường êm ái, Meggie đã ngủ say liền
suốt mười đến mười hai tiếng đồng hồ liên tiếp. Các thức ăn đều ngon miệng.
Meggie ăn ngay khi vừa thức dậy, cả khi xuống bãi biển nàng cũng mang những
trái xoài theo để vừa tắm vừa ăn. Nước không sâu, không một gợn sóng, mặt biển
như gương. Chỉ tiếc là nàng không biết lội. Sự vắng vẻ, cái cảm giác đối diện với
chính mình thật là thiên đàng. Anne nói đúng làm sao! Được sống một mình là sự
thoát trần, một sự thanh thản hoàn toàn. Sự vắng vẻ và đơn độc không hề khiến
Meggie cảm thấy nặng nề. Anne, Luđie, Justine và Luke đều không làm cho Meggie
nhung nhớ và lần đầu tiên trong ba năm nàng cũng không nhớ Drogheda. Ông già
Rob thì cứ mỗi chiều lái xe ngang, chờ đợi một cái vẫy tay bình yên của Meggie
từ trên bao lơn nhà sàn rồi quay
đầu
xe lại. Chỉ có một lần, Rob gọi điện thoại đến Meggie cho biết ông ta sẽ tổ chức
một chuyến đi dạo trên biển cho một cặp vợ chồng du lịch khác ở đầu kia trên đảo.
Ông hỏi Meggie có thích đi cùng không và nàng đã đồng ý. Chuyến đi đó giúp
Meggie khám phá một thế giới thần tiên dưới đáy biển. Nước biển trong đến đỗi
nàng nhìn rõ từng con cá, những rong biển và màu sắc thật của san hô. Nghe theo
lời khuyên của Rob, Meggie xuống bãi không mặc quần áo. Lúc đầu, nàng nhút nhát
như con thỏ luôn đánh mùi, sợ chó rừng đến và chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ làm
Meggie giật mình, vội vàng che thân. Nhưng vài ngày sau Meggie tỏ ra không còn
e thẹn nữa, Meggie đi lại tự nhiên trên các con đường mòn, dọc bờ biển hay bì
bõm dưới nước ấm và mặn, mà không một mảnh vải che thân. Meggie bắt đầu có cảm
giác của một con thú được nuôi trong chuồng nay đột ngột được thả ra giữa một
thế giới dễ thương, hiếu khách, thoải mái và đầy ánh sáng mặt trời. Giữa một
khung cảnh mà Meggie không còn muốn nhớ đến ai thì nàng không thể quên Ralph.
Ralph giống như Chúa trời: tất cả bắt đầu và kết thúc ở anh ấy. Từ ngày Ralph
quỳ gối xuống đất tại nhà ga Gilly, trong vầng sáng của hoàng hôn, hai tay
giang ra ôm lấy nàng. Lúc ấy nàng đã có Ralph và dù cho sau này không bao giờ gặp
lại Ralph nữa, nàng vẫn tưởng tượng rằng ý nghĩ cuối cùng của nàng trên cõi trần
này cũng dÃ7911 nh cho Ralph mà thôi. Thật kinh hãi khi nhận ra rằng chỉ có một
và luôn luôn một người như thế có vị trí quan trọng trong cuộc đời mình! Meggie
đã nói gì với Anne? Rằng đòi hỏi của nàng rất bình thường… một người chồng,
những đứa con, một gia đình riêng, được yêu một ai đó. Như thế đâu phải là đòi
hỏi quá đáng. Nói cho cùng, phần đông những người phụ nữ đều có được tất cả những
điều như vậy. Nhưng với Meggie những mong ước tầm thường ấy lại quá khó khăn.
Hãy chấp nhận đi Meggie Cleary, Meggie O” Neill. Người mà nàng muốn là Ralph
nhưng nàng sẽ không bao giờ có được. Thế thì, với tư cách một người đàn ông, gần
như Ralph đã làm mờ đi những người đàn ông khác và làm Meggie không còn có thể
yêu ai. Vậy, thì chấp nhận cái thực tế đó đi. Chấp nhận rằng người đàn ông, một
người nào đó để yêu là không thể có. Chỉ còn có những đứa con là nàng yêu thương
và chính từ đấy mà tình yêu sẽ có được. Như thế, có nghĩa, một lần nữa, phải
quay về với Luke và những đứa con của Luke sau này. Ôi, Chúa nhân từ! Không,
Chúa không nhân từ, Chúa đã làm gì cho con hay chỉ tước đoạt Ralph của con? Tước
đoạt cả cái mà Chúa không cần đến. Giữa Chúa và con, chúng ta không hề đối xử với
nhau dịu dàng. Và xin Chúa hiểu cho điều này, Người không làm con sợ như trước
đây nữa đâu. Trước kia, con sợ Người biết bao, sợ sự trừng phạt. Suốt đời, con
luôn đi theo con đường
thẳng
và hẹp vì sợ Người. Nhưng con đã được gì? Bây giờ thì có lẽ không có điều gì
làm con bằng lòng hơn là vi phạm các điều răn của Người. Người là một kẻ lừa bịp,
một con quỷ mang lại sợ hãi. Người coi chúng con như những đứa con nít, đem sự
trừng phạt để hù dọa. Nhưng bây giờ Người không còn làm cho con sợ nữa, vì rằng
Ralph không phải là người con ghét mà con đã ghét Chúa. Tất cả là lỗi của Người
chứ không phải của Ralph. Anh ấy chỉ sống trong nỗi sợ hãi Người như con đã từng
sống. Thế mà anh vẫn yêu Người, đó là điều con không thể nào hiểu được. Con
không tìm thấy ở Chúa điều gì đáng yêu. Thế nhưng làm sao mình có thể không yêu
một người đã yêu thương Chúa? Mình đã thử với tất cả nghị lực, nhưng vẫn cảm thấy
không thể nào làm được. Chuyện đó thật như lên cung trăng và mình đã khóc than
để mong có được Ralph. Bây giờ thì mày phải dẹp cái trò khóc lóc đó đi Meggie
à. Có thế thôi. Mày nên bằng lòng với Luke và những đứa con của hắn. Hoặc nhắm
thẳng mục tiêu hoặc bằng mưu mẹo, mày hãy rứt Luke ra khỏi những cây mía đáng
ghét rồi sống với hắn ở một vùng đất nào đó mà cây cối cũng không thể mọc lên.
Mày báo cho giám đốc ngân hàng Gilly quyết định của mày rằng từ nay các khoản
thu nhập của mày phải được chuyển vào trương mục của chính mày. Và mày dùng tiền
đó để mang lại tiện nghi, mang lại sung sướng cho cái gia đình không có bóng
mát của mày, một điều mà Luke chẳng bao giờ mang đến cho mày được. Mày dùng tiền
đó để giáo dục những đứa con của Luke và bảo đảm để chúng không bao giờ rơi vào
cảnh thiếu thốn. Và như thế, không còn phải thêm gì nữa Meggie à. Ta là Meggie
O” Neill, chứ không phải Meggie de Bricassart. Hơn nữa Meggie de Bricassart
nghe không được thuận tai lắm. Đáng lý tôi phải là Meghann de Bricassart nhưng
mà tôi vẫn ghét cái tên Meghann. Ôi! có thể nào tôi chấm dứt được sự nuối tiếc
rằng chúng không phải là những đứa con của Ralph? Tất cả vấn đề là ở chỗ đó, phải
không? Mày hãy luôn luôn lặp lại rằng: cuộc đời của mày thuộc về mày, Meggie
O” Neill, mày không được làm hỏng nó bằng cách mơ mộng một người đàn ông và những
đứa con mà mày không có quyền được có. Thế đấy! Đã quyết định như thế đấy! Tự
hành hạ mình với cái quá khứ cần chôn đi là việc làm vô ích. Duy nhất chỉ có tương
lai và tương lai thuộc về Luke, những đứa con của Luke, nó không thuộc về
Ralph. Ralph là quá khứ. Meggie úp mặt xuống cát và khóc. Từ năm lên ba chưa
bao giờ Meggie khóc như thế. Hai ngày sau khi Meggie lên đường đi nghỉ ở đảo
Matlock, Luke ghé Himmelhoch trên đường đi nhận việc làm mới ở nhà máy lọc đường
Sydney. Đã đến lúc anh phải biết mặt con. Nếu đứa bé
là
con trai chắc anh đã về thăm ngay sau khi Meggie sinh, nhưng anh đã không giấu
được sự thất vọng khi biết là con gái. Nếu Meggie nhất định có con thì ít ra nó
phải kế nghiệp anh một ngày nào đó cai quản trang trại ở Kynuna. Con gái không
lợi ích gì cả, lớn lên theo chồng. Anne bực bội nói với Luke: – Tôi chán ngấy
khi thấy anh cư xử với vợ như thế. Luke, anh hãy cư xử như người lớn, hãy nhận
lấy trách nhiệm của mình! Anh có vợ và một đứa con! Anh phải xây dựng cho vợ
con anh. Một mái nhà, làm chồng, làm cha chứ không thể là kẻ vô tích sự như thế.
– Tôi sẽ làm những điều đó, tôi sẽ làm. Nhưng bây giờ thì chưa được. Tôi phải
tiếp tục đốn mía trong vài năm nữa để đề phòng lúc khó khăn sau này. Tôi không
muốn sống nhờ vả vào tiền của Meggie. – Ồ, toàn những chuyện phịa! Anne nói giọng
mỉa mai, môi trề ra khinh bỉ. Vậy chớ không phải anh đã lấy Meggie vì tiền à? Gương
mặt rám của Luke đỏ lên. Ãnh mắt của Luke nhìn nơi khác tránh Anne. – Tôi nhìn
nhận là đồng tiền có vai trò, nhưng tôi cưới Meggie vì tôi vừa ý Meggie hơn các
cô gái khác. – Vừa ý, nhưng anh có yêu cô ấy không? – Tình yêu? Tình yêu nghĩa
là gì? Một phát minh của phụ nữ tốt bụng, thế thôi. Bây giờ nếu chị đã chấm dứt
những lời lẽ dạy dỗ tôi thì, xin chị cho biết Meggie ở đâu? – Cô ấy không được
khỏe, tôi đã gởi cô ấy đi nghỉ ở xa. Ồ, anh đừng có cuống cuồng lên. Không phải
với tiền của anh đâu. Tôi có dự tính thuyết phục anh cùng đi với Meggie nhưng
tôi thấy rằng hoàn toàn vô ích. – Không có chuyện đó. Arne và tôi đi Sydney
ngay chiều tối hôm nay. – Anh biến đi ngay đi Luke. Anh làm tôi phát chán. Anh
không xứng đáng với những gì anh đang có. Anh cứ quay trở lại với thằng bạn bất
hủ Arne của anh, với cây mía và công việc còng lưng của anh. Luke dừng lại ở cửa:
– Vợ tôi đặt tên đứa bé là gì nhỉ? Tôi quên mất. – Justine, Justine! – Cái tên
ngu ngốc. Anh ta lầm bầm và bỏ đi. Hôm sau, một chiếc xe hơi kiểu thể thao màu
đỏ tiếng máy nổ ròn rời đường cái Dunny rẽ xuống con đường dốc. Chiếc xe loại mới
nhất và đắt tiền. Thoật đầu, Anne không nhận ra người đàn
ông
từ cửa xe bước ra vì ông ta ăn mặc theo người dân ở Queensland với chiếc quần
tây ngắn. Trơi ơi đúng là một mẫu người đàn ông đẹp! Anne nghĩ thầm, trong lúc
ông ta đang bước lên thềm nhanh nhẹn mỗi lúc hai bậc thang. Nhưng khi đến gần
thì người đàn ông đó không còn trẻ như chị tưởng, hai bên mái tóc đã bạc. Mình
chưa bao giờ gặp một anh thợ đốn mía đỏm dáng như thế này – Anne nghĩ trong bụng.
Nhưng khi đôi mắt trầm tĩnh và xa xôi ấy nhìn thẳng vào Anne chị mới nhận ra người
khách: – Trời ơi! Chị kêu lên và đánh rơi chiếc bình sửa của bé Justinẹ Người
đàn ông cúi nhặt bình sữa lên, trao lại cho Anne và tựa lưng vào bao lơn hiên
nhà, đứng đối diện với chị: – Không sao – người đàn ông nói – Núm vú bình sữa
chưa chạm đất. Chị có thể tiếp tục cho em bé bú. Đang đói, Justine bắt đầu cựa
quậy, Anne liền đưa núm vú vào miệng cô bé: – Thật bất ngờ, thưa Đức cha! Con
phải thú thật rằng Đức cha không giống chút nào một Tổng giám mục mà lâu nay
con đã hình dung. Con vẫn tưởng tượng các Tổng giám mục là những con người mập
mạp, đầy đủ. – Trong lúc này, tôi tự coi mình không phải là một Tổng giám mục;
tôi chỉ là một tu sĩ đang nghỉ hè, cho nên chị có thể gọi tôi bằng Ralph. Có phải
đây là con người nhỏ xíu đã gây ra bao nhiêu phiền phức cho Meggie khi tôi đến
thăm cô ấy lần trước? Chị có thể cho tôi bế cháu một chút được không? Ralph ngồi
vào chiếc ghế bành bên cạnh Anne, bế đứa bé và nâng bình sữa cho nó bú, chân
gác chéo một thách thong dong. – Cuối cùng Meggie đặt cho nó tên Justine? – Thưa
vâng. – Một cái tên đẹp. Chúa ơi, nhìn xem màu tóc của cô bé! Đúng là màu tóc của
ông ngoại nó. – Meggie cũng bảo thế. Như tán đồng nhận xét của Ralph, Justine
nhoẻn cười. Một lát sau, cô bé ngủ ngon. – Meggie đâu rồi? Ralph hỏi. – Hiện cô
ấy không có ở đây. Cô ấy không hồi sức được sau khi sinh và mùa mưa lại đến,
càng hại cho sức khỏe. Luđie và con đã gởi cô ấy đi nghỉ hai tháng. Meggie sẽ
trở về vào đầu tháng ba, trong bảy tuần nữa. Ralph thở dài.
–
Đây là lần thứ hai tôi đến để giã từ Meggie mà không gặp cô ấy. – Đức cha sẽ đi
đâu? – Đi La Mã, Vatican. Đức Hồng Y Di Contini Verchese giữ nhiệm vụ của Đức Hồng
Y Monteverdi mới mất. Tôn trọng lời hứa của mình, Đức cha đã yêu cầu tôi phụ tá
cho ngài. Đây là một vinh dự lớn. Tôi không thể từ chối. Dừng một lúc, Ralph hỏi
với giọng bình thường. – Hiện cô ấy ở đâu? – Meggie mướn một nhà sàn ở đảo
Matlock. – Ở đâu vậy? – Đảo Matlock, ở gần eo biển Whitsunday, một nơi yên
tĩnh. Trong năm cứ vào mùa này, đảo hoàn toàn vắng người. Đức cha đừng ngại chi
hết, Đức cha không gặp ai đâu. – Rất an tâm – Ralph vừa lẩm bẩm và nhẹ nhàng
trao Justine còn ngủ cho Anne – Cảm ơn chị. Chị hoàn toàn hiểu lầm. Tôi chỉ muốn
gặp Meggie, ngoài ra không có mục đích nào khác. Không bao giờ tôi để Meggie
liên lụy vào bất cứ chuyện gì, hoặc để một sự đe dọa nào có thể làm hại linh hồn
trong sáng và bất tử của cô ấy. – Nhưng linh hồn của Đức cha thì sao? Trong
hoàn cảnh này, con nghĩ rằng Đức cha nên đến đó dưới cái tên Luke O” Neill. Ở
đó người ta đang chờ đợi hắn đến. Như thế, Đức cha có thể an tâm rằng cả Meggie
và Đức cha không có ai có thể bị hoen ố vì một vụ xicangdan. – Nhưng nếu Luke
xuất hiện? – Không thể có chuyện đó. Hắn đã đi Sydney tháng ba mới trở về. Con
là người duy nhất có thể nói cho hắn biết Meggie đang ở Matlock nhưng con đã
không nói gì với hắn, thưa Đức cha.
CHƯƠNG
30
Khi
chiếc xe già cỗi của Rob chạy dọc theo con đường cái thì Meggie đang đứng ngoài
hiên nhà sàn như mọi khi, tay đưa cao báo cho Rob biết mọi chuyện đều yên ổn.
Nhưng không, xe dừng lại ở nơi bình thường nó vẫn quay đầu. Từ trên xe một người
đàn ông mặc chiếc quần tây ngắn, áo sơ mi, chân mang xangdan, tay xách vali bước
xuống. – Xin chào tạm biệt ông O” Neill! Rob vừa rồ máy vừa hét tọ Luke O”
Neill? Chưa bao giờ Meggie lẫn lộn giữa Luke O” Neill với Ralph de Bricassart.
Rõ ràng không phải Luke! Dù ở khoảng cách xa như thế này và trong ánh sáng đục
của hoàng hôn đang đổ xuống, Meggie cũng không thể nào lầm lẫn được. Nàng đứng
như chết tại chỗ, mặt ngây ra và chờ đợi, trong khi đó thì người đàn ông ấy –
Ralph đang đi xuống con đường dốc nhỏ dẫn đến nơi ở của Meggie. Thế là cuối
cùng Ralph đã đến với Meggie. Ralph quyết định như thế. Không lý do nào khác có
thể giải thích vì sao Ralph đến tìm nàng ở một nơi như thế này và lại đội lốt
Luke O” Neill. Toàn thân Meggie như tê cứng: chân, đầu óc, và cả con tim.
Ralph đến đây để đòi lại vật sở hữu của mình chăng? Nhưng tại sao Meggie lại
không nghe thấy một cảm giác nào? Tại sao Meggie không hối hả chạy xuống con đường
nhỏ, lao vào vòng tay của Ralph, hạnh phúc được gặp lại Ralph quá lớn khiến mọi
thứ trên đời trở thành vô nghĩa? Đúng là Ralph, người mà Meggie luôn đòi hỏi có
được trên cõi đời này. Có phải chăng Meggie vừa trải qua hơn một tuần thử tìm
cách xua đuổi thực tế ấy. Chúa hãy đày chàng xuống địa ngục! Chúa hãy đày chàng
xuống địa ngục! Tại sao chàng lại xuất hiện vào lúc nàng bắt đầu cố quên đi. Trời
ơi, thế là mọi chuyện bắt đầu trở lại! Ngây dại, toát mồ hôi, lòng bực bội,
Meggie sững sờ và bất động như khúc gỗ, chờ đợi, quan sát cái vóc dáng dễ thương
và quen thuộc ấy đang rõ dần. – Chào anh, Ralph – Meggie nói, răng cắn chặt, mắt
nhìn xa xăm. – Chào em, Meggie. – Anh đem vali vào trong. Anh uống một tách trà
nóng nhé? Meggie vừa nói vừa đi vào phòng nghỉ mắt vẫn không nhìn Ralph. – Anh
đang rất cần một tách trà – Ralph trả lời cũng lạnh lùng như Meggie. Ralph đi
theo Meggie vào nhà bếp và nhìn Meggie lấy tách dĩa từ trong tủ gỗ.
Trong
khi chờ đợi nước sôi, Meggie cho Ralph một hộp bánh bích-quy. Ralph nhẹ nhàng lấy
mấy chiếc bánh đặt lên đĩa. Căn nhà được xây với hai mái hiên, một hướng ra đường
cái và một hướng xuống bãi biển. Cách bố trí của nhà sàn cho phép hai người có
lý do để nhìn về hai hướng khác nhau. Bóng đêm vùng nhiệt đới nhanh chóng tràn
ngập xuống. Hai người uống trà mà không nói lời nào, mà cũng không làm sao nuốt
trôi được một miếng bánh. – Chuyện gì thế Meggie? – cuối cùng Ralph phải mở lời
trước. Giọng Ralph dịu dàng và âu yếm làm sao khiến cho Meggie nghe tim mình như
chạm mạnh vào ngực. Nhưng ngay lúc ấy Meggie đau đớn nhận ra đó chỉ là một câu
hỏi dịu dàng của người lớn khi đang âu yếm đứa trẻ con. Ồ, thì ra Ralph đến
Matlock không phải để gặp một người đàn bà mà để gặp một cô bé. Anh đã yêu cô
bé ấy chứ không phải người đàn bà này. Meggie quay lại rồi ngước nhìn Ralph,
ánh mắt đắm chìm, sửng sốt, tức giận, coi như mình vừa bị xúc phạm. Bây giờ một
lần nữa anh ấy lại xem mình như một cô bé! Thời gian như ngừng lại và cứ thế
Meggie nhìn Ralph khiến Ralph buộc phải nín thở nhìn người đàn bà trong đôi mắt
xanh trong. Đôi mắt của Meggie. Ôi, Chúa, đôi mắt của Meggie! Ralph rất thành
thật với Anne Mueller khi ông nói rằng chỉ muốn gặp nàng chứ không có gì hơn.
Dù yêu, Ralph vẫn không đến với Meggie như người tình được; đến chỉ để gặp nói
chuyện trong tình bạn bè; ngủ lại trên chiếc đivăng ở phòng khách, đồng thời thử
một lần loại trừ tận gốc rễ sự mê hoặc dai dẳng mà Meggie đã đặt lên ông. Ralph
tưởng tượng nếu được nhìn thấy cái gốc rễ ấy và nhổ lên giữa ban ngày thì có khả
năng tìm cách hủy diệt nó. Thật khó khăn cho Ralph nếu phải thích nghi với một
Meggie có vóc dáng nở nang đầy đủ của một người đàn bà. Khi Ralph nhìn vào mắt
Meggie, ông nhận ra một ánh sáng tương tự với ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn trong
giáo đường. Ralph phải thú nhận điều này, ông đã thèm muốn thân xác Meggie từ
khi hai người ôm hôn nhau lần đầu tiên, nhưng đòi hỏi nhục dục ấy chỉ là thứ yếu
so với tình yêu bao la mà Ralph dành cho Meggie. Ralph đã phân đôi ra, xem hai
điều ấy như tách rời nhau, chứ không như hai mặt của một tình cảm duy nhất.
Trong giây phút này, nếu có cách nào đó để rời đảo, Ralph đã trốn tránh Meggie
ngay. Nhưng Ralph không thể làm điều đó được và tốt hơn ông nên can đảm ở lại đối
diện với nàng thay vì trải qua một đêm lang thang. Tôi phải làm gì đây? Làm sao
tôi có thể chuộc lại sai lầm đã phạm?
Tôi
đã yêu nàng! Và như thế thì tôi phải yêu nàng bằng những gì nàng đang có chứ
không phải với hình ảnh kỷ niệm một thời của Meggie. Chính vì chiều sâu thăm thẳm
rất phụ nữ của Meggie mà tôi đã mãi mãi yêu nàng. Vậy thì Ralph, hãy vứt bỏ đi
những tấm chăn che mắt, hãy nhìn Meggie như nàng đang trước mắt, chứ không như
lâu nay. Mười sáu năm, mười sáu năm dài và không thể nào tưởng tượng… Tôi đã
bốn mươi tuổi và nàng hai mươi sáu. Không một ai trong hai chúng tôi còn bé bỏng
nhưng giữa chúng tôi, chính tôi lại là người ngây thơ nhất. Meggie vẫn tiếp tục
nhìn Ralph chăm chăm, ánh mắt hổ thẹn và nhục nhã. Trong khi sắc mặt của Ralph
biến đổi liên tục thì Meggie bỗng chốc ý thức được sự lố bịch của mình trong việc
đánh giá sai lầm tình cảm của Ralph. Ralph đến đây vẫn với ý định đi tìm cô bé
năm xưa! â€Hãy đi đi Meggie, đi nhanh! Chạy đi, cút khỏi nơi đây với chút mảnh
vụn tự ái mà ông ta còn để lại cho mày?†Ngay cái giây phút ý nghĩ ấy thoáng
qua đầu, Meggie phóng ra khỏi chiếc ghế bành và chạy trốn. Ralph đuổi kịp
Meggie trước khi nàng ra đến hiên. Do quá đà chạy Meggie chạm mạnh và ngã vào
người Ralph làm cho Ralph lảo đảo. Tất cả sức mạnh ở Ralph bị ức chế lâu nay như
chờ đợi lúc này để bùng nổ. Ralph chao đảo trong một thứ cảm giác mà dục vọng
đã làm mờ đi lý trí, thể xác hình như đã khuất phục được ý chí của ông. Meggie
giang hai tay quấn lấy cổ Ralph, còn Ralph đón nhận sự sôi nổi của Meggie bằng
cách siết chặt nàng vào lòng. Ralph cúi đầu xuống, tìm kiếm và bắt gặp đôi môi
Meggiẹ Đôi môi ấy không còn là một kỷ niệm luôn bị xua đuổi, sợ sệt mà là một
hiện thực. Meggie giữ chặt Ralph với tất cả sức mạnh như thể từ nay nàng không
bao giờ chịu xa Ralph dù trong ý tưởng. Còn Ralph, biết bao năm tháng chờ đợi
giây phút này; ông khao khát nhưng lại chối bỏ quyền lực mà Meggie đã áp đặt,
thậm chí ông đã tự cấm đoán mình không được phép nhớ đến một người đàn bà như
thế. Ralph bế Meggie lại gần giường, hay những bước chân của họ đã đưa hai người
đến đó? Có phải mình đã bế nàng, Ralph không nhớ được đã làm gì nhưng một điều
hiển nhiên là Meggie đang nằm dài trên nệm. “ Lạy Chúa! Meggie của tôi! Người
ta đã nuôi dưỡng tôi từ nhỏ như thế nào để tôi chỉ nhìn em như nhìn một thứ tội
lỗi?†Trước mắt Ralph là Meggie nhưng hình như ông không nhận ra nàng là một
con người riêng biệt. Ông mong muốn biến Meggie vĩnh viễn thành một phần của
ông, dù một cành nhỏ tháp vào thân cây lớn nhưng nàng vẫn sẽ là ông chứ không
là một con người như thế. Từ nay, mãi mãi không bao giờ Ralph xa lạ với sự rung
động của thể xác này. Thật sự nàng đã được sinh ra cho Ralph vì rằng chính
Ralph đã nhồi nặn ra. Trong mười sáu năm ông đã tạo nên một Meggie mà ông không
hề ý thức và không rõ lý do tại
sao
ông làm như vậy. Ông quên đi rằng Meggie đã bỏ rơi ông, rằng một người đàn ông
khác đã chỉ ra cho nàng biết sự kết thúc mà chính ông đã chuẩn bị. Vì rằng
Meggie của ông là sự sa ngã, là hoa hồng, là những gì sáng tạo nhất. Đó là một
giấc mơ mà Ralph sẽ không bao giờ tỉnh nếu ông không là một người đàn ông với một
thân xác đàn ông. “Lạy Chúa! Tôi biết, tôi biết! Tôi biết tại sao tôi đã ôm ấp
nàng trong lòng mà cứ như ôm giữ chặt một khái niệm mơ hồ và như ôm một đứa trẻ
rất lâu sau khi nàng đã vược qua hai thời kỳ đó. Nhưng tại sao tôi lại ý thức
như vậy nhỉâ€. Cuối cùng Ralph hiểu mục tiêu mà ông muốn đạt đến là bản thân mình
không như những người đàn ông khác. “Đức Chúa nhân từ, tại sao Người không
tránh cho con sự thử thách này? Con là một người đàn ông, con sẽ không thể nào
như Chúa được. Thật là một ảo tưởng muốn thần thánh hóa cuộc đời này. Chúng con
đã chối từ hành động duy nhất chứng minh sẽ không thể phủ định thân phận làm người.â€
Ôm Meggie trong vòng tay, ông nhìn đôi mắt tràn đầy nước mắt, gương mặt bất động
chỉ hơi rạng rỡ. Ông quan sát cái miệng hoa hồng hé mở, khẽ nói như trong hơi
thở một lời sung sướng đến chính ông cũng ngạc nhiên. Meggie giữ Ralph bằng hai
tay, cả hai chân nữa, như một sợi dây êm dịu, mượt mà, ray rứt, buộc chặt Ralph
vào nàng. Ralph đặt cằm vào chỗ trũng của vai nàng, má Ralph áp vào má Meggie,
bất chấp sự đòi hỏi điên dại của người đàn ông đang vật lộn với số mệnh của
mình. Như bị cuốn hút theo cơn lốc, Ralph buông tay, chìm đắm trong bóng tối
dày đặc, tiếp đó là một thứ ánh sáng lóa mắt. Trong một lúc ông bơi trong ánh mặt
trời rồi cái sáng rực ấy mờ dần chuyển sang màu nâu và tắt lịm. Như thế, đó là
đàn ông và ông không thể làm khác hơn. Nhưng điều đó không phải là nguồn gốc của
sự đau khổ mà chính là Ralph không chịu đựng được ý nghĩ ông phải xa Meggie một
khi đã chiếm đoạt nàng. Tạo ra một Meggie cho riêng mình, Ralph đã bấu víu nàng
như một người chết đuối bám vào một thanh gỗ giữa biển rộng bao la. Rồi không
bao lâu, thật nhẹ nhàng Ralph trồi lên mặt biển, vượt lên trên một đợt sống
dâng cao rồi lại ngã quỵ trước số mệnh không thoát ra được, số mệnh của một người
đàn ông. Meggie sung sướng tột cùng, trước đây nàng chưa bao giờ được sung sướng
như thế. Ngay giây phút Ralph đưa nàng lên giường thì cũng là lúc bài ca thân
xác cất cao, tất cả như quay cuồng: cánh tay, bàn tay, làn da và sự thỏa mãn trọn
vẹn. “Tôi sinh ra cho anh ấy và chỉ cho anh ấy mà thôi… Chính vì thế mà tôi
có rất ít cảm giác với Lukeâ€. Meggie thầm nghĩ.
Khi
Ralph thức dậy, Meggie đọc thấy trong đôi mắt màu xanh của ông vẫn một tình yêu
đã từng sưởi ấm, đã từng mang lại cho nàng một thứ ước mơ từ khi còn thơ dại. Đồng
thời Meggie cũng nhận ra bóng dáng của sự mệt mỏi không phải của thể xác mà của
tâm hồn. Lâu nay Ralph vẫn nghĩ suốt đời mình sẽ không khi nào ông thức dậy bên
cạnh một người đàn bà. Giây phút này tràn đầy âu yếm hơn cả lúc gần gũi trước
đó, dấu hiệu của những tình cảm khắng khít và mặn mà. Meggie ơi! Em đã đứng
ngay giữa đường để chỉ cho anh thấy lòng tự hào của một linh mục nhưanh sai lầm
và chủ quan đến mức nào; cũng như Lucifer, anh đã sa xuống địa ngục. Ngày tiếp
theo ngày, đêm tiếp theo đêm. Ngay cả những trận mưa to cũng khoác lên một vẻ đẹp,
là cơ hội để đi dạo mà không cần mặc gì hết, để được nghe những tiếng tí tách
trên mái tôn, nước cũng ấm và mơn trớn như ánh nắng mặt trời. Và khi mặt trời
ló dạng thì hai người rảo bước trên đảo, ưỡn người ra tắm nắng, đùa với sóng;
và Ralph tập bơi cho Meggie. Thỉnh thoảng, khi Ralph không hay mình bị chú ý,
Meggie nhìn Ralph nồng nàn, cố khắc ghi lại từng nét một trong trí nhớ của
nàng. Meggie nhớ lại dù nàng thương Frank biết bao nhưng sau đó khi xa nhau
hình ảnh của người anh yêu mến vẫn mờ nhạt với thời gian. Nàng nhìn đôi mắt,
mũi, miệng, hai bên thái dương bạc trắng tương phản với những lọn tóc đen, thân
hình khỏe và chắc nịch vẫn thon và giữ được sự cường tráng của tuổi trẻ, dù rằng
Ralph đã mất đi phần nào sự mềm mại. Và nếu quay lại, bắt gặp Meggie đang đắm
đuối nhìn mình, thì Ralph biết rằng ông cũng đang nhìn Meggie chứa đựng sự đau
khổ câm lặng, một chuyển biến buồn bã như sắp xảy đến. Meggie nhận ra cái thông
điệp kín đáo ấy: đã đến lúc Ralph phải ra đi, trở về với Giáo hội, trở về với
những bổn phận và trách nhiệm của chàng. Rất có thể Ralph sẽ không bao giờ có được
trạng thái tinh thần như xưa nhưng chàng sẽ có đầy đủ khả năng để phục vụ. Vì rằng
chỉ có những ai đã từng bị trượt té mới hiểu biết những cam go của con đường đi
tới. Một buổi chiều, lúc mà mặt trời xuống khá thấp nhuộm đỏ cả vùng biển và
làm nhảy múa thứ ánh sáng màu vàng rực rỡ của những đồi cát và bãi san hô, lúc
hai người đang nằm dài trên bãi thì Ralph quay đầu về phía Meggie: – Meggie,
anh chưa bao giờ thật hạnh phúc mà cũng chẳng bao giờ thật đau khổ. – Em biết,
Ralph. – Vâng, anh tin em. Phải chăng chính vì thế mà anh yêu em? Em không có
gì thật đặc biệt Meggie à, thế nhưng không giống bất cứ một ai khác. Anh yêu
em, Meggie! – Anh phải đi ngay à? – Ngày mai, Bắt buộc như thế. Tàu của anh phải
đến Genoa trong tuần này.
–
Genoa? – Vâng, anh phải đi Roma. Chắc phải ở lại đó rất lâu. Có thể luôn cả những
năm tháng còn lại của đời anh. Anh cũng chưa biết rõ. – Anh đừng lo, Ralph. Em
sẽ không tìm cách giữ anh lại đâu. Với em cũng thế, thời gian nghỉ ở đây cũng sắp
hết, rồi đây em sẽ chia tay với Luke và trở về Drogheda. – Ồ, Meggie! Đâu phải
do những gì vừa xảy ra, đâu phải do anh phải không? – Không, dĩ nhiên là không,
nàng khẳng định bằng những lời nói dối rất thành khẩn. Luke chẳng cần em. Em
không gây một mất mát nào cho anh ấy. Nhưng em cần một mái nhà, một gia đình và
từ này em nghĩ rằng Drogheda sẽ giúp em có được những điều ấy. Thật là bất công
nếu cứ để Justine đáng thương lớn lên trong một gia đình mà mẹ nó đang là đày tớ
gái, dù cho Anne và Luđie không hề cư xử với em như thế. – Anh sẽ viết thư cho
em, Meggie. – Không, anh đừng viết gì cả. Anh tưởng rằng em cần những lá thư của
anh sau khi chúng ta đã sống với nhau như thế này? Em không muốn một điều gì
không hay xảy ra cho anh; những lá thư của anh có thể không được giữ kín đáo. Tốt
hơn là anh đừng viết thư cho em. Nếu một mai anh đếnéUc, thì tự nhiên anh sẽ đến
thăm Drogheda, nhưng em nói trước với anh, Ralph à, lúc ấy anh phải suy nghĩ kỹ
trước khi quyết định. Trên thế gian này chỉ có hai nơi mà em được ưu tiên trước
Chúa… Ở đây, Matlock và ở Drogheda. Ralph kéo sát Meggie vào lòng, vuốt ve
mái tóc của nàng. – Meggie, trong tận đáy lòng anh ước ao được lấy em làm vợ,
mãi mãi không xa lìa em. Anh không muốn chia tay em… Và một cách nào đó, mãi
mãi anh không muốn được giải thoát khỏi em. Phải chi đừng bao giờ anh đến
Matlock. Nhưng chúng ta đã không thể thay đổi được số phận của mình, biết đâu
như thế vẫn tốt hơn. Anh đã tự khám phá được một số điều kín đáo mà trước đây
chưa bao giờ anh để lộ ra và anh cũng không cần phải đối diện với những điều đó
nếu anh không đến đây. Dù sao vật lộn với cái đã biết vẫn hơn cái chưa biết,
đúng là một ẩn số. Anh yêu em. Anh đã luôn luôn yêu em và anh sẽ mãi mãi yêu
em. Em đừng quên điều đó. Hôm sau, Rob xuất hiện lần đầu tiên từ khi ông ta đưa
Ralph đến đây. Rob kiên nhẫn chờ đợi hai người chia tay nhau. – Tạm biệt em,
Meggie. – Tạm biệt anh, Ralph. – Em nhớ giữ gìn sức khỏe.
–
Vâng, anh cũng thế. Ralph nghiêng đầu ôm hôn Meggie; mặc dù rất kiên quyết;
nàng vẫn bấu chặt Ralph; nhưng khi Ralph gỡ đôi cánh tay Meggie đang quấn chặt
lấy ông thì nàng rút tay lại đặt ra phía sau lưng và đứng yên như thế, Ralph bước
lên xe và trong khi Rob cho xe lui, Ralph vẫn nhìn thẳng phía trước, không hề
quay lưng nhìn về hướng ngôi nhà sàn nơi đó có Meggie đang một mình trông theo.
Ãt có người đàn ông nào đủ can đảm làm như thế – Rob nghĩ thầm. Chưa bao giờ
Rob thấy đôi mắt của ai lại vừa nhân bản lại vừa buồn như thế. Sự kiêu kỳ xa vắng
đã vĩnh viễn xóa đi trong cái nhìn của Tổng giám mục Ralph de Bricassart. Khi
Meggie trở lại Himmelhoch, Anne biết trước rằng chị không còn giữ được Meggie ở
lại với mình. Vẫn là một Meggie đó nhưng bây giờ đã rất khác. Meggie bế Justine
trên tay một cách âu yếm như thể chỉ đến bây giờ nàng mới hiểu được đứa con gái
có ý nghĩa như thế nào với nàng. Meggie vừa khẽ ru con vừa nhìn chung quanh, cười
với Anne một cách trìu mến. – Không làm sao em cám ơn chị cho hết, Anne ạ. – Nhưng
về chuyện gì? – Về chuyện nhờ chị mà Ralph đã gặp em ở Matlock. Em hết sức mang
ơn chị. Trước đây như chị biết, em đã quyết định tiếp tục ở với Luke. Nhưng bây
giờ, em sẽ trở về Drogheda và sẽ ở đó mãi mãi. – Chị rất tiếc phải xa em và
càng buồn hơn phải xa Justine, nhưng chị lại rất mừng cho hai mẹ con. Luke chẳng
mang lại điều gì tốt đẹp cho em và Justine cả. – Chị có biết hiện giờ anh ấy ở
đâu không? – Luke đã trở lại nhà máy lọc đường. Anh ta chặt mía gần Ingham. –
Em phải đi tìm anh ấy và phải tìm cách ngủ với anh ấy. Em đã bị trễ hai tuần.
Kinh nguyệt của em rất đúng. Chắc chắn em đang có thai, Anne à. – Lạy Chúa!
Anne kêu lên, trố mắt nhìn Meggie như mới gặp lần đầu. Rất có thể chỉ là dấu hiệu
giả thường có ở người phụ nữ, Anne lắp bắp trong miệng. Nhưng Meggie lắc đầu với
vẻ quả quyết. Chuyến tàu hỏa đi Ingham chậm chạp và lắc lư, chỉ có ý nghĩ về đứa
con trong bụng là của Ralph mới giúp Meggie đủ can đảm tìm Luke. Nếu không có mầm
sống mới mà nàng biết chắc đang tượng hình thì việc ngủ với Luke giữa lúc này
là một tội lỗi không thể tha thứ với chính mình. Nhưng vì con của Ralph, nàng sẵn
sàng bắt tay với cả quỷ sứ.
Trong
thực tế, dự tính của Meggie không phải dễ thực hiện, nàng hiểu điều đó. Nhưng
nàng đã tính toán rất kỹ và lạ thay chính Luđie cũng đã góp ý cho Meggie trong
vụ này. Xế chiều thứ bảy, Meggie đến Ingham và đăng ký thuê phòng ở một khách sạn
bên ngoài có vẻ khá nhất. Sau khi cất vali, Meggie trở xuống phòng tiếp khách
tìm điện thoại. Nàng gọi được trại Brann nơi nhóm của Luke đang làm việc, nhờ
người nhắn lại với Luke là vợ anh vừa đến Ingham và muốn gặp anh. Ngay sau đó
Meggie trở lên phòng, đột nhiên cảm thấy mất bình tĩnh và sợ hãi. Suốt cuộc
hành trình nàng đã suy nghĩ đến cách nào hiệu nghiệm nhất để đạt mục đích. Tuy
vậy nàng vẫn không tự tin ở mình. Trong cái không khí nóng rực và ẩm thấp,
Meggie vừa run rẩy vừa cởi hết quần áo và nằm dài trên giường, mắt nhắm lại, đầu
óc ám ảnh bởi ý nghĩ làm sao để bảo vệ cho được đứa con của Ralph. Luke đến
khách sạn lúc chín giờ tối. Luđie đã tiên đoán đúng. Vào cuối tuần, Luke thanh
thản, tỏ ra dễ chịu và cảm thấy thích thú có một sự thay đổi nào đó trong chương
trình giải trí của mình. Khi con trai của ông chủ Brann chuyển lại lời nhắn của
Meggie tại lán trại, Luke vừa rửa chén dĩa xong, định đạp xe xuống Ingham nhập
với bọn của Arne dự cuộc vui chơi thường lệ tối thứ bảy. Vì vậy Luke đón nhận
tin này vui vẻ, viễn ảnh gặp lại Meggie được xem như một dịp đổi chương trình.
Từ lúc nghỉ ở Atherton về, anh ngạc nhiên thấy mình thỉnh thoảng thèm muốn
Meggie dù công việc hàng ngày có làm anh kiệt sức. Cái điệp khúc – nhà, tổ ấm,
gia đình – là điều duy nhất làm cho anh phát chán và ngăn trở anh đi Himmelhoch
gặp Meggie mỗi khi anh có việc đến vùng lân cận Dunny. Trước khi đến khách sạn,
Luke thận trọng đi tìm mua bao cao su phòng ngừa nhưng tất cả cửa hàng dược phẩm
điều đóng cửa. Khi anh bước xuống xe, một phần hăng hái đã biến đi nhưng anh
nhún vai: đành phó thác cho sự may rủi vậy! Chỉ một đêm thôi và nếu có một đứa
con, biết đâu với chút may mắn lần này nó sẽ là một thằng con trai. Meggie giật
mình, đầu óc căng thẳng khi nghe Luke gõ cửa phòng. Nàng nhảy xuống giường và đến
gần cửa. – Ai đó? – Luke. Nàng vặn chìa khóa và mở hé cửa, nép mình sang một
bên. Luke đã bước vào, nàng thận trọng đóng cửa lại rồi lặng lẽ đứng nhìn Luke.
Luke ngắm Meggie. Ngực nàng nở nang hơn, hấp dẫn
hơn
bao giờ. Hai núm vú đổi màu nhợt nhạt sang màu đỏ sậm từ khi nàng sinh con . Nếu
anh ta cần có một sự kích thích thì với bộ ngực hấp dẫn này đã quá đủ. Anh bước
tới, nhấc bổng nàng lên và đặt nàng xuống giường. Khi trời đã sáng, nàng vẫn chưa
nói một lời nào với Luke. Ngồi ở mép giường, nàng tỏ ra xa cách kỳ lạ với Luke.
Anh ta vươn vai một cách lười biếng, miếng ngáp rồi tằng hắng: – Này, cái gì đã
thúc đẩy em đến Ingham hở Meggie? Anh ta hỏi. Nàng quay lại, nhìn Luke với đôi
mắt tràn đầy khinh bỉ. – Hả, cái gì đã thúc đẩy em đến đây? Luke lặp lại câu hỏi,
giọng hơi bực bội. Vẫn không trả lời, cái nhìn chăm chăm không thay đổi, Meggie
không muốn nói lời nào. Nhưng rồi đôi môi hơi hé mở, Meggie mỉm cười: – Em đến
đây để báo với anh, em sẽ trở về Drogheda – nàng chỉ nói ngắn gọn có thế. Trong
một lúc, Luke không tin lời Meggie, anh ta nhìn nàng kỹ hơn và nhận ra rằng
nàng không đùa. – Tại sao vậy? – Anh ta hỏi. – Em đã nói trước với anh chuyện
gì sẽ xảy ra nếu anh đi Sydney mà không mang em theo – Nàng nói. Luke chưa hết
ngạc nhiên: – Nhưng đó là chuyện xảy ra mười tám tháng trước đây và sau đó anh
đã đưa em đi nghỉ mát! Bốn tuần ở Atherton rất tốn kém. Do đó anh không thể đưa
em đi Sydney được. – Từ đó đến nay anh đã đi Sydney hai lần, hai lần đều không
có em – nàng tiếp tục nói. Lần đầu, em có thể thông cảm với anh vì em đang mai
thai Justine, nhưng Chúa cũng dư biết rằng em sẵn sàng đi nghỉ vào mùa mưa,
tháng giêng. – Trời ơi! – Anh là một thằng hà tiện hết cỡ, Luke à – Giọng
Meggie nhẹ nhàng hơn. Anh có một sản nghiệp hai mươi ngàn bảng, tiền ấy thuộc
quyền của em hoàn toàn, thế mà anh lại keo kiệt từng đồng vì sợ xài phí nếu có
em trong chuyến đi Sydney. Anh và đồng tiền của anh làm em phát bệnh! – Anh có
đụng vào đó đồng xu nào đâu! Anh ta hét lên. Tiền ấy nằm trong ngân hàng tất cả,
không thiếu một xu và tuần nào anh cũng bỏ thêm vào.
–
Vâng, đúng thế. Nó ở trong ngân hàng, ở cái nơi mà nó sẽ mãi mãi ở đó. Anh
không hề có ý định xài đến nó phải không? Anh chỉ muốn sùng bái nó như sùng bái
con bò vàng. Hãy thú nhận như thế đi Luke. Anh là người keo kiệt. Và hơn thế ấy
nữa anh là một thằng ngu hết chỗ nói! Đối xử với vợ và con gái mà còn thua cả đối
với con chó. Anh không cần biết đến sự có mặt của vợ con, chứ đừng nói chi đến
những nhu cầu của hai mẹ con em. Đồ ích kỷ, đẹp trai mà chẳng ra cái thứ gì, đồ
đểu! Mặt tái xanh, người run lên, Luke tìm lời lẽ để trả lời. Sự bất công trong
các lời buộc tội của Meggie làm cho Luke bối rối, nhưng anh vẫn tự tin về ý đồ
trong sáng của mình. Rất là đàn bà, Meggie chỉ nhìn thấy cái vẻ bên ngoài, hoàn
toàn không nhận ra ý định tốt đẹp tiềm ẩn bên trong Luke. – Meggie ơi! Luke kêu
lên giọng đầy ngạc nhiên vừa thất vọng vừa nhẫn nhục. Anh có bao giờ đối xử tệ
với em đâu. Không, không bao giờ! Không một ai có thể bảo rằng anh xử sự tàn nhẫn
với em. Không một ai! Em được ăn uống đầy đủ, có một mái nhà, mùa đông được sưởi
ấm… – Ừ, phải rồi! Nàng cắt ngang. Về chuyện đó em thừa nhận. Đúng là em không
bao giờ bị cóng rét, nhưng cũng chưa bao giờ em thấy người em nóng lên như lúc
này. Đúng là em đang nói chuyện với bức tường. – Anh cũng có thể nói ngược lại
như thế. – Anh cứ nói đi – Meggie đáp lại lạnh lùng, nàng bước xuống giường mặc
quần áo vào. Em không đòi hỏi chúng ta ly dị, nàng nói tiếp. Em không có ý định
tái giá. Còn về phía anh nếu anh muốn ly dị, thì anh biết em ở đâu để tìm. Về mặt
pháp lý, em là người có lỗi phải không? Vì em bỏ anh… hay ít ra theo cái nhìn
của pháp luật là thế. – Meggie, anh không hề bỏ em, Luke nhấn mạnh. – Anh có thể
giữ lại cho anh số tiền hai chục ngàn bảng của em. Nhưng anh sẽ không có thêm một
đồng xu nào của em nữa. Các lợi tức riêng của em được em dùng để nuôi Justine
và biết đâu nuôi thêm một đứa con khác nếu em được may mắn. – Thì ra đó là mục
đích của em! Luke giận dữ. Tất cả điều em đeo đuổi là có thêm một đứa con nữa
phải không? Chính vì thế mà em đã đến đây. Một tiếng hát của con thiên nga, một
món quà nhỏ của thằng này để em mang về Drogheda! Với em, thằng này chỉ là một
con ngựa giống! Lạy Chúa, còn gì khôi hài hơn! – Phần đông phụ nữ nhìn bọn đàn
ông dước góc độ ấy – Meggie nói giọng không có vẻ gì là tinh nghịch. Anh bực tức
về tất cả những gì ở em phải không Luke và như thế anh càng không hiểu gì
hết.
Hãy tỏ ra một người chơi bạc thẳng thắn. Trong ba năm rưỡi, em đã mang lại cho
anh nhiều tiền hơn là anh kiếm được nhờ chặt mía. Nếu em có thêm một đứa con,
anh cũng khỏi phải bận lòng gì. Kể từ giây phút này, em mãi mãi không muốn gặp
lại anh nữa, cho tới khi nào em còn sống. Nàng mặc quần áo, cầm ví tay và xách
chiếc vali nhỏ để gần cửa. Tay đặt lên quả đấm cửa, Meggie quay lại. – Anh cho
phép em có lời khuyên nhỏ với anh, Luke à. Nó rất có ích sau này nếu anh lấy một
người phụ nữ khác, lúc mà anh đã quá già và mệt mỏi để tiếp tục hiến mình cho
cây mía… Anh cần biết rằng anh hỗn như một con khỉ. Anh há miệng to quá, anh
giống con trăn muốn nuốt chửng những người phụ nữ. Anh làm cho em phát tởm,
Luke! Luke tự cao tự đại, anh chẳng ra làm sao cả! Sau khi Meggie đi rồi, Luke
yên lặng ngồi trên mép giường, mắt nhìn chăm chăm cánh cửa khép kín. Nhưng rồi
anh đứng lên nhún vai và vội vàng mặc quần áo. Nếu sửa soạn thật nhanh thì kịp
nhảy lên một xe tải và trở về lán trại gặp Arne và bè bạn. Thằng bạn lâu năm tốt
bụng Arne! Đàn ông, thật ngu ngốc. Đi ngủ với một phụ nữ cũng thích đấy, nhưng
sống với những thằng bạn trai thì vẫn thích hơn! Không muốn báo trước cho ai
ngày trở về, Meggie đến Drogheda trên một chiếc xe chở thư cùng với lão Bluey
Williams; Justine nằm trong chiếc nôi bằng mây đặt trên nệm. Drogheda,
Drogheda! Bạch đàn và những cây hồ tiêu khổng lồ, êm ả đầy tiếng ong kêu. Bên
này là những súc vật và những ngôi nhà tường bằng đá, và sỏi màu nhạt; bên kia
là những thảm cỏ xanh đẹp lạ kỳ bao quanh tòa nhà lớn. Mùa thu trong vườn đầy
hoa, nào là quế trúc, thược dược và nhiều loại cúc, đây đó đầy những hoa hồng.
Từ con đường trải sỏi phía sau nhà, bà Smith nhón chân nhìn ra, miếng há hốc, cười
vui rồi bật khóc. Minnie và Cat chạy ào ra xe, Drogheda đúng là một tổ ấm, ở
đây mãi mãi là trái tim của Meggie. Fiona bước ra khỏi nhà xem có chuyện gì ồn
ào như thế. – Thưa mẹ, con đã trở về. Không có chuyện gì có thể gây xáo động
đôi mắt màu nâu ấy, đôi mắt giờ đây đã già dặn hơn. Meggie nhận ra ngaỵ Mẹ nàng
vui mừng; có điều là bà không biết bày tỏ sự vui mừng ấy ra sao? – Con đã bỏ
Luke? Fiona hỏi lớn vì nghĩ rằng Smith và những người giúp việc đều có quyền được
biết điều đó.
–
Thưa vâng. Con sẽ không trở lại với Luke nữa. Anh ấy không muốn có một mái nhà,
không đếm xỉa đến những đứa con, và cũng không cần một người vợ. – Những đứa
con? – Vâng mẹ ạ, con đang chờ sinh đứa thứ hai. Nhiều tiếng ô, a ngạc nhiên
vang lên từ phía những người giúp việc và Fiona. Mẹ nàng nói ngay với giọng cân
nhắc nhưng vẫn không giấu được niềm vui. – Nếu thằng đó nó không cần con thì
con hoàn toàn có lý do trở về mái nhà xưa. Ở đây mọi người sẽ lo cho con. Phòng
cũ của Meggie nhìn ra bãi chăn chính đầy những hoa, phòng kế bên dành cho
Justine và đứa bé sẽ ra đời. Ôi, thật dễ chịu làm sao được sống ở tại nhà mình!
Bob rất vui mừng gặp lại em gái. Càng ngày Bob càng giống Pađy, lưng hơi khom,
da sạm đỏ dưới ánh nắng mặt trời. Tối hôm đó, cả gia đình Cleary có mặt đầy đủ
để chuyển một xe tải ngũ cốc vào kho mà Jims và Patsy vừa mua từ hợp tác xã
Gilly về. Thoạt đầu Meggie được phân công trông chừng các bãi chăn gần nhất.
Con ngựa sắc hồng và con ngựa thiến đã chết. Bob tìm Martin King hỏi mua hai
con khác. Kể cũng lạ, cái chết của con ngựa sắc hồng gây cho Meggie ấn tượng dữ
dội hơn cả khi xa cách Ralph bởi đây chính là con ngựa chàng thường cỡi. Khi bụng
trở nên nặng nề không thể lên lưng ngựa nữa, Meggie ở nhà với bà Smith, Minnie
và Cat, may và đan những chiếc áo chuẩn bị cho đứa bé đã bắt đầu cựa quậy. Thằng
bé (nàng tin chắc là con trai) phải chăng hợp với nàng hơn Justine, do đó nàng
không cảm thấy bị hành hạ và vui sướng chờ đợi ngày ra đời của con. Justine biết
đi và biết nói rất sớm, vào lúc mới chín tháng. Nhưng có điều thật khó hiểu ở
Justine là cô bé không bao giờ cười. Bà con ở Drogheda ai ai cũng tìm cách làm
cho Justine vui, nhưng chẳng ai làm được điều đó. Đúng là Justine vượt qua bà
ngoại về sự nghiêm nghị bẩm sinh ấy. Ngày một tháng mười, Justine được mười sáu
tháng thì con trai của Meggie chào đời tại Drogheda, sớm hơn bốn tuần lễ.
Meggie sinh rất nhanh, không đau đớn như lần sinh trước. Thằng bé thật đẹp! Chiếc
lưng dài, thon thả, tóc hung, mắt xanh lợt. Đúng là đôi mắt của Ralph, bàn tay
của Ralph, cái mũi, miệng và bàn chân cũng của Ralph. Meggie mừng thầm khi nghĩ
rằng Luke cũng có vóc dáng tương tự và những nét gần giống Ralph. – Con đã chọn
cho nó một cái tên chưa? Fiona hỏi trìu mến và tỏ ra say mê thằng bé.
–
Con sẽ đặt cho nó tên Dane. – Cái tên nghe quái lạ! Tại sao con lại chọn tên ấy?
Có phải vì đó là tên phổ biến trong dòng họ O” Neill? Mẹ tưởng rằng con đã dứt
khoát với dòng họ O” Neill rồi mà? – Cái tên Dane không dính dấp gì với Luke cả
thưa mẹ. Đó là tên của chính thằng bé, chứ không phải của ai khác. Con đã đặt
cho con gái tên Justine vì con thích tên đó và cũng vậy con đã đặt tên Dane. Ngắm
nhìn thằng bé mắt nhắm, lông mi dày lấp lánh màu vàng ánh, chân mày lông tơ,
hai má nhỏ có vẻ háu ăn, Meggie nghe dâng lên trong lòng một tình yêu mãnh liệt
và không hiểu sao cùng lúc ấy nàng cảm thấy nhói lên một nỗi xót xa trong lòng.
“Dane sẽ lấp đầy sự trống của đời tôi. Nó phải làm điều đó vì ngoài nó tôi
không còn có ai khác. Ralph, anh đã yêu Chúa hơn yêu em và cũng chính vì Chúa
mà anh sẽ không bao giờ biết em đã đánh cắp cái gì của anh cũng như đã đánh cắp
cái gì của Chúa. Em sẽ không bao giờ nói cho anh biết về Dane. Ôi, con yêu quí
của mẹ! (Nàng đặt thằng bé nằm êm ả trên những chiếc gối để nhìn rõ hơn gương mặt
nhỏ đẹp tuyệt vời ấy). Con thương yêu của mẹ! Con là của riêng mẹ và mẹ sẽ
không bao giờ giao con cho bất kỳ ai khác, nhất là ba con, một người, không có
quyền nhìn nhận con. Như thế có tuyệt không hở con?
CHƯƠNG
31
Chiếc
tàu cập bến cảng Genoa đầu tháng tư. Tổng giám mục De Bricassart đặt chân lên một
nước àtràn ngập ánh nắng mùa xuân Địa Trung Hải. Liền đó, ông lên tàu hỏa đi
Roma. Nếu ông tỏ ý muốn, Vatican đã gởi đến một chiếc xe với tài xế để đưa ông
về. Nhưng ông sợ lại chứng kiến cảnh Giáo hội một lần nữa đóng cửa với ông, do
đó ông muốn đẩy lùi thời điểm thử thách ấy càng lâu càng tốt. Thành phố Vĩnh Cửu.
Nó mang đúng cái tên của nó, ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn qua cửa kiếng xe tắc-xi.
Những lầu chuông và những vòm giáo đường, những quảng trường đầy chim bồ câu,
những đài nước uy nghi, những hàng cột Roma đặt trên những nền ăn sâu hàng bao
thế kỷ. Với ông, tất cả những thứ đó không đáng chú ý. Đối với ông điều quan
tâm duy nhất là Vatican với những phòng tiếp tân lộng lẫy và những căn phòng
riêng trông có vẻ khắc khổ. Một tu sĩ dòng Saint Dominique hướng dẫn Ralph đi dọc
theo những đại sảnh lát đá cẩm thạch, ngang qua vô số những bức tượng bằng đồng,
bằng đá, tất cả xứng đáng có một vị trí trong viện bảo tàng. Phía sau là rất
nhiều tranh được vẽ trên bức tường vĩ đại, tác phẩm của Giotto, Raphael,
Botticelli và Fra Angelico. Trong căn phòng màu vàng sáng chói, nổi bật lên là
màu sắc của những bức tượng, những bức tranh, bàn ghế và thảm đều được đưa về từ
Paris, Hồng Y Di Contini Verchese tiếp Ralph. Tổng giám mục De Bricassart quỳ
xuống, hôn chiếc nhẫn. – Con hãy ngồi xuống đây Ralph. – Thưa Đức Hồng Y, con
muốn được xưng tội. – Khoan đã! Trước hết chúng ta phải nói chuyện với nhau bằng
tiếng Anh. Ở đây tai vách mạch rừng nhưng cũng may, rất hiếm tai nghe được tiếng
Anh. Con hãy ngồi xuống đây Ralph. Ồ, thật là thú vị gặp lại con. Vắng con, ta
càng thấy những lời cố vấn khôn ngoan, tư tưởng hợp lý và quan niệm rất hay về
tình bạn… cần thiết như thế nào đối với ta. Cho tới nay chưa có người phụ tá
nào ta có thể dành một phần nhỏ thôi tình cảm mà ta dành cho con. Sự mệt mỏi
kinh khủng mà Ralph đã trải qua mấy tuần lễ bỗng nhiên như cất khỏi đôi vai của
ông; ông tự hỏi tại sao mình lại lo ngại quá nhiều về cuộc gặp gỡ này trong khi
tận đáy lòng, Ralph dư biết rằng ông sẽ được thông cảm và tha thứ. Nhưng vấn đề
không phải ở chỗ đó. Ông thấy mình đã làm thất vọng một người quá tốt – một người
bạn đúng nghĩa của mình. Ralph phải đối đầu với một con người trong sáng trong
khi chính mình không còn trong sáng nữa.
–
Ralph, chúng ta là những người tu hành nhưng không chỉ là như thế; chúng ta
không thể thoát khỏi số mệnh của bản thân mặc dù chúng ta khao khát những cái
gì đó rất tuyệt đối. Chúng ta là những con người với những yếu đuối và sai sót
của con người. Ta đoán trước sẽ không có điều gì trong những điều con sẽ kể cho
cha nghe lại làm vẩn đục hình ảnh mà ta đã có về con trong suốt những năm chúng
ta cùng sống chung nhau. Dưới mắt ta cũng sẽ không có điều gì có thể làm mất uy
tín của con và làm mờ nhạt tình cảm mà ta đã gởi gắm cho con. Trong yếu đuối của
chúng ta, về thân phận con người chúng ta, nhưng ta biết rằng rồi đây con sẽ hiểu
vì tất cả chúng ta cuối cùng đều hiểu như thế, ngay cả Đức Thánh Cha là người
khiêm tốn và nhân từ nhất cũng hiểu như thế. – Con đã không giữ lời khấn của
con, thưa Đức cha. Không dễ dàng tha thứ đâu. Đó là tội phạm thượng. – Từ nhiều
năm nay con đã phạm lời khấn nguyện sống thanh bạch khi nhận gia tài bà Mary
Carson. Điều đó đã làm cho chúng ta xa rời sự trong sáng và sự vâng lời Chúa phải
không? – Như thế cả ba lời khấn đều bị vi phạm, thưa Đức cha. – Ta vẫn thích được
con gọi bằng Vittorio như xưa. Ta không lấy làm khó chịu mà cũng chẳng thấy có
gì phải buồn lòng. Tất cả những chuyện ấy đều là ý muốn của Chúa, và ta nghĩ rằng
rất có thể đây là một bài học lớn mà con nên nhận lấy với một thái độ đừng tự
hành hạ mình quá đáng. Những ý định của Chúa không phải đều dễ hiểu. Nhưng ta
nghĩ rằng con đã hành động không dễ dãi, rằng con không đầu hàng trước khi đã đấu
tranh. Ta rất hiểu con. Ta biết con rất tự phụ, nhiễm nặng địa vị tu sĩ của
mình, rất ý thức về nỗi khát khao tìm đến cái gì đó rất tuyệt đối. Do đó, có thể
con cần một bài học như thế để hạ bớt sự kiêu căng của con, để cho con hiểu rằng
trước hết con chỉ là một con người, cho nên nó sẽ không bao giờ được nhào nắn
hoàn thiện như con nghĩ. Có phải như thế không? – Thưa đúng thế. Con thiếu sự
khiêm tốn và con có cảm tưởng, hiểu theo cách nào đó, con muốn trở thành Chúa
Trời. Con phạm tội rất nặng và không thể tha thứ. Con không thể tha thứ cho
chính con, vậy thì làm sao con hy vọng sự tha thứ của Chúa? – Lại kiêu căng nữa
rồi, Ralph à! Kiêu căng! Quyền tha thứ không thuộc về con, con vẫn chưa hiểu điều
đó sao? Chỉ có Chúa mới có quyền tha tội. Chỉ có Chúa mà thôi. Và Chúa sẽ tha tội
cho những ai biết ăn năn chân thành. Chúa đã từng tha tội nặng hơn cho những vị
thánh và cho cả những tên vô loại. Con tưởng rằng Lucifer không được tha tội
sao? Nó đã được tha tội ngay khi nó chống lại Chúa. Số phận của nó – trở thành
Chúa tể địa ngục – là chính nó chọn lựa chớ
không
phải Chúa. Có phải chính nó đã nói: Thà ngự trị dưới địa ngục còn hơn là phụng
sự trên thiên đàng. Bởi rằng nó không chiến thắng nổi sự kiêu căng của nó, nó
không chấp nhận được ý muốn của nó khuất phục trước ý muốn của một ai khác, dù
cho ai khác đó là Chúa. Ta không cho rằng con phạm một sai lầm giống như vậy,
người bạn thân yêu của ta. Sự khiêm tốn là đức tính duy nhất còn thiếu ở con,
nhưng nó lại là đức tính chính yếu của một vị thánh… hay một con người vĩ đại.
Cho tới khi nào con chưa chịu trả lại cho Chúa quyền tha tội thì con chưa đạt tới
sự khiếm tốn thật sự. Gương mặt đầy nghị lực của Ralph co rúm lại. – Thưa vâng,
con biết rằng Đức cha nói đúng. Con phải tuyệt đối chấp nhận con người hiện hữu
của con, phải nỗ lực sửa mình mà không tự kiêu về mình. Con xin ăn năn; như vậy
con sẽ xưng tội và chờ được tha tội. Con rất ăn năn và ăn năn thật sự. Ralph thở
ra, đôi mắt của ông không giấu được sự xúc động trong lòng mà những lời lẽ ôn tồn
đã thể hiện. – Vittorio à, tuy nhiên, khi nghĩ lại, con thấy con không thể hành
động khác hơn. Hoặc là con hủy diệt nàng, hoặc là con nhận lấy sự hủy diệt ấy về
phần con. Lúc đó, con không có sự lựa chọn nào khác vì rằng con yêu nàng một
cách chân thành. Hoàn toàn không phải lỗi ở nàng nếu con không tiếp tục từ chối
nối dài tình yêu trên phương diện xác thịt . Thân phận của nàng đáng quan tâm
hơn thân phận của con. Cho đến lúc đó, con cứ tự coi mình ở một vị trí cao hơn
nàng vì con là kẻ tu hành và con coi nàng như một hạng người ít được quan tâm.
Nhưng con hiểu ngay rằng con là người có trách nhiệm, về tình trạng hiện nay của
nàng… Đáng lý, con phải tránh xa nàng khi nàng còn là một cô bé, nhưng con đã
không làm như thế. Con đã đem nàng ẩn náu trong trái tim con và nàng biết điều
đó. Nếu con thật lòng muốn rứt nàng ra khỏi cuộc đời con thì chắc chắn nàng
cũng giã biệt và con đã mất hết tất cả ảnh hưởng đối với nàng. Đức cha thấy,
con có đủ lý do để mà ăn năn… Con đã thử tạo ra một tác phẩm nho nhỏ riêng của
con. – Có phải Hoa Hồng không? – Thưa Đức cha, đâu còn ai khác nữa? Nàng là sự
toan tính sáng tạo duy nhất của con. – Nhưng Hoa Hồng có đau khổ không? Làm như
thế có phải chăng con tạo ra cho cô ấy nhiều đau khổ hơn là con hắt hủi cô ấy?
– Con không biết được, Vittorio. Con rất muốn biết sự thật ra sao! Nhưng trong
lúc này, con không thể hành động khác hơn. Hơn nữa chuyện ấy xảy ra… một cách
tự nhiên. Tuy nhiên con nghĩ rằng con đã cho nàng cái điều nàng cần thiết, đó
là ý thức về nhân cách phụ nữ của nàng.
àcon
không phải nói rằng nàng không biết mình là một người phụ nữ, nhưng là chính
con, con không nhận ra điều đó. Nếu khi con gặp nàng, nàng đã là một phụ nữ,
thì mọi việc có lẽ đã diễn tiến khác hơn; nhưng rất tiếc con đã gặp nàng khi
nàng là một cô bé. – Con vẫn cho thấy mình tự phụ Ralph à và chưa sẵn sàng để được
tha tội. Thật xót xa phải không? Ta xót xa mà nhìn thấy con quá nhân đạo để bị
rơi vào sự yếu đuối của con người. Con có thật sự hành động với tinh thần hy
sinh cao cả không? Ralph giật mình. Ông nhìn vào hai con mắt u buồn trước mặt
và thấy trong đó phản chiếu hai gương mặt thật nhỏ với kích thước không nghĩa
lý gì. – Không, thưa Đức cha – Ralph nhìn nhận. Con là con người và với tư cách
một con người con đã khám phá ở nàng một sự hoan lạc không thể chối cãi. Trước
đây con hoàn toàn không biết rằng sự tiếp xúc với một người phụ nữ lại có kết
quả như thế và nó lại là nguồn gốc của một sự khoái lạc sâu đậm như thế. Con muốn
mãi mãi không bao giờ xa nàng, không phải chỉ vì vấn đề thân xác, mà đơn giản
chỉ vì con thích ở gần nàng… nói chuyện với nàng, hay không nói chuyện, được
ăn những món ăn do nàng nấu, cười với nàng, chia sẻ những suy nghĩ của nàng.
Con cảm thấy thiếu vắng nàng mãi mãi khi con còn sống trên cõi đời này. Có một
điều gì đó xuất hiện trên gương mặt khổ hạnh, u buồn của Hồng Y và không hiểu
sao khiến cho Ralph nhớ đến nét mặt của Meggie vào lúc hai người chia tay nhau.
Nó phản ánh sự vững vàng của một con người bất chấp mọi nỗi khổ đau, buồn phiền,
và vất vả để cứ nhìn ra phía trước mà đi. Con người ấy, mặc áo màu tím, bình thường
tình cảm tưởng như chỉ dành riêng cho con mèo cái giống Abyssinian, đã biết gì
về chuyện thầm kín của Ralph? – Con không thể nào sám hối về những gì Meggie đã
mang lại cho con – Ralph tiếp tục nói trước sự im lặng của Hồng Y. Con chỉ sám
hối vì đã vi phạm những lời khấn hệ trọng và không thể quên. Con biết từ nay
con không thể nào đến với công việc thuộc trách nhiệm của con như trước kia, nhất
là với một nhiệt tình như xưa. Về điều này, con rất ăn năn. Nhưng về những gì
liên quan đến Meggie thì… Sắc mặt của Ralph thay đổi hẳn khi nhắc đến tên
Meggie khiến cho Hồng Y phải quay về hướng khác để giấu đi những dằn vặt trong
đầu ông. – Sám hối những gì thuộc về Meggie chẳng khác nào con đã giết nàng –
Ralph nói tiếp cùng lúc đưa bàn tay lên che hai mắt một cách mệt mỏi – Con
không biết con nói có rõ ràng không hoặc lời nói của con có phản ảnh trung thực
suy nghĩ của con không. Thưa Đức cha, con luôn cảm thấy gần như bất lực khi phải
thể hiện bằng lời những tình cảm của con dành cho nàng.
Ralph
ngồi hơi nghiêng người ra phía trước trong khi ánh mắt của Hồng Y Di Contini
Verchese chiếu thẳng về phía Ralph. Ralph chú ý thấy hai bóng nhỏ của mình
trong đôi mắt của Hồng Y hình như trở nên lớn hơn một chút. Đôi mắt của
Vittorio như hai cái gương, chúng chỉ phản chiếu những gì chúng thấy nhưng
không để bất cứ điều gì người khác phát hiện những gì ẩn chứa trong đôi mắt. Ngược
lại, đôi mắt của Meggie mở rộng để Ralph có thể đi thẳng vào tâm hồn nàng. – Với
con, Meggie như một phép lành. Đột ngột Ralph nói. Nàng là hình ảnh của một thứ
thánh lễ khác. – Vâng, ta hiểu. Hồng Y tán đồng và thở dài. Con nhìn ra được một
tình cảm như thế là tốt. Ta nghĩ, dưới mắt của Đức Thánh cha điều đó sẽ làm giảm
nhẹ lỗi của con. Ta khuyên con nên xưng tội với cha Giorgio sẽ có lợi ích cho
con hơn là với cha Guillermo. Cha Giorgio sẽ không hiểu lầm những tình cảm và
lý lẽ của con. Còn cha Guillermo trực giác vốn không mạnh và có thể đánh giá
không đúng những gì con thật sự ăn năn. Họ cũng là những con người, Ralph thân
mến à, những con người lắng nghe lời xưng tội. Con đừng quên điều đó. Chỉ trong
cái khung cảnh mục vụ mà họ làm chức năng của họ: nơi ở của Chúa. Ngoài ra họ
cũng là những con người. Sự tha tội mà họ ban cho cũng là của Chúa nhưng tai mà
họ nghe và đánh giá vẫn thuộc về con người. Có người mang trà vào. – Con thấy
ngoài đường phố ở Genoa và Roma có rất nhiều người mặc áo sơ mi đen – Ralph nhận
xét trong khi nhìn Hồng Y pha trà. – Đó là những đám người của lãnh tụ
Mussolini. Chúng ta phải đối đầu với một thời ký khó khăn, Ralph thân mến. Đức
Thánh cha ra lệnh không để xảy ra sự đoạn giao giữa Giáo hội với chính quyền
àvà Người có lý trong mọi việc. Tình hình diễn biến thế nào, nhân danh Chúa,
chúng ta vẫn phải giữ được tự do của mình để có thể trông nom các con chiên dù
cho con chiên có bị chia rẽ trong một cuộc chiến tranh. Bất kể sự chọn lựa của
con tim thế nào, chúng ta bắt buộc phải luôn luôn giữ cho Giáo hội đứng trên mọi
biến động, mọi chủ thuyết chính trị và những tranh chấp quốc tế. Ta muốn con gắn
bó với ta vì ta nhận thấy những gì xuất hiện trên gương mặt con sẽ không bao giờ
phản bội lại những suy nghĩ trong đầu ở bất cứ hoàn cảnh nào. Con đã là một nhà
ngoại giao khi mới sinh ra. – Con không nghĩ mình sẽ thành công – Tổng giám mục
De Bricassart nói. Rồi đây không ai tán đồng thái độ của chúng ta và mọi phía sẽ
lên án chúng ta.
–
Ta biết điều đó. Và Đức Thánh cha cũng biết. Nhưng chúng ta không thể hành động
khác hơn. Tuy nhiên không có gì có thể cấm cản trong lòng chúng ta cầu nguyện
cho Mussolini và Hitler sụp đổ nhanh chóng. – Đức cha tin thật sự chiến tranh sẽ
bùng nổ? – Ta không thấy có cách nào tránh khỏi. Drogheda vừa có được nhiều
radio. Nhờ các tiến bộ khoa học mà cuối cùng Gillanbone đã đặt một đài phát
thanh. Mỗi sáng, Fiona, Meggie và Smith mở máy để nghe tin tức trong vùng và bản
tin khí tượng. Khi đài phát thanh quốc gia thông báo rằng hôm thứ sáu 1 – 9 –
1939, Hitler đã xâm lăng Ba Lan, lúc ấy chỉ Fiona và Meggie có mặt ở nhà, nhưng
cả hai đều không quan tâm trước tin này. Châu Âu ở đầu kia thế giới, chẳng dính
dấp gì đến Drogheda, trung tâm của vũ trụ. Nhưng chiều ngày ba tháng chín, thử
tướng Úc Rober Gordon Menzies nói chuyện trên đài giải thích cho nhân dân hiểu
được cuộc xâm lược Ba Lan cuối cùng đã buộc Anh tuyên chiến với Hitler và Úc
không thể đứng ngoài cuộc xung đột. Sau bài diễn văn của thủ tướng Úc, Bob phát
biểu: – Nếu tính luôn Frank, gia đình chúng ta có tất cả sáu người đàn ông. Ngoại
trừ trường hợp Frank, tất cả chúng ta đều được coi là thợ chăn nuôi do đó không
được gọi nhập ngũ. Trong số thợ chăn nuôi thuộc quyền chúng ta hiện nay, theo
tôi chỉ có sáu người muốn lên đường và hai người ở lại. – Em muốn đăng ký nhập
ngũ! Jack nói to lên, mắt sáng ngời. – Em cũng thế, tiếng nói của Hughie. – Và
cả hai đứa tụi này nữa! Jims khẳng định thái độ của mình và cho cả Patsy. – Hợp
lý hơn hết là Jims và Patsy vì cả hai trẻ nhất và ít kinh nghiệm nhất trong nghề
chăn nuôi, và nếu nhập ngũ thì tất cả chúng ta đều là lính mới. Nhưng cả hai
anh em đừng quên rằng mới mười sáu tuổi… Mặc dù Jims và Patsy phản đối nhưng
lúc đó chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary lên đường tòng quân. Phải
chờ thêm một năm nữa, chiến tranh mới xâm nhập vào cái thế giới bé nhỏ Drogeda.
Trong một năm đó, từng người một, các thợ chăn nuôi từ giã trang trại lên đường
nhập ngũ. Đầu tháng sáu năm 1940, người ta được tin đoàn quân viễn chinh thuộc
đế quốc Anh buột phải rút khỏi châu Âu qua ngã Dunkerque; những người tình nguyện
vào lực lượng thứ hai Hoàng gia
Úc
đã đổ xô đến các trung tâm tuyển mộ. Trong số đó có Jims và Patsy, cả hai đăng
ký ở Dubbo nhưng được chuyển đến trại huấn luyện ở Ingleburn, ngoại ô Sydney.
Gia đình có mặt đông đủ để tiễn Jims và Patsy lên tàu hỏa. Jims và Patsy được
sung vào sư đoàn 9 Úc theo yêu cầu của họ và được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu
năm 1941, vừa kịp lúc tham gia vào trận Benghazi. Giữa lúc các lực lượng Anh rút
lui dước áp lực của Afrika Korps – đoàn quân Đức quốc xã tinh nhuệ của tướng
Rommel – thì sư đoàn 9 Úc được lệnh chiếm và tử chiến bảo vệ Tobruk. Trong khi
đó tại Drogheda, Meggie nhận được thư của Luke cho biết hắn vẫn làm cái công việc
đốn mía, Luke nói rõ trong thư cho Meggie an lòng đừng sợ anh ta bị nhập ngũ. Nội
dung bức thư cho thấy Luke coi như chẳng có gì xảy ra sau cái ngày Meggie đã
nói với hắn như tát nước vào mặt tại khách sạn ở Ingham. Với một nụ cười chán
ngấy, Meggie lắc đầu rồi ném lá thư của Luke vào giỏ giấy vụn. Năm 1941 thật tệ
hại cho Drogheda. Đây là năm thứ năm liên tiếp bị hạn hán. Meggie, Bob, Jack,
Hughie và Fiona gần như bó tay. Tiền của trang trại Drogheda gởi trong ngân
hàng vẫn đủ để mua thức ăn cứu sống những đàn cừu nhưng phần nhiều chúng lại
không chịu ăn. Mỗi đàn cừu đều có một con đầu đàn, một thứ thủ lĩnh tự nhiên của
chúng. Phải ép cho được con này chịu ăn thì các con còn lại mới ăn theo. Nhưng
tình trạng nguy ngập đến nỗi có những lúc con cừu đầu đàn chịu ăn thế mà các
con cừu còn lại vẫn không thèm ngó ngàng đến thức ăn để sẵn trong các bãi.
Trang trại Drogheda chỉ còn giữ được một người thợ chăn nuôi duy nhất. Meggie
phải có mặt bảy ngày trong một tuần ở các bãi chăn. Mặc dù Meggie dành rất ít
thời giờ để chăm sóc Justine và Dane nhưng hai đứa trẻ vẫn được nuôi chu đáo.
Nàng vẫn nghĩ lúc này Bob cần nàng nhiều hơn hai đứa con. Nhưng thật sự Justine
và Dane rất thèm được mẹ ẵm bồng gần gũi. Có khi cả tuần liền Meggie không thấy
mặt con vì từ các bãi chăn về nhà lúc nào trời cũng đã tối sẫm. Thế nhưng mỗi lần
ngắm nhìn Dane, lòng Meggie xao xuyến lạ lùng. Thật là một thằng bé tuyệt vời,
hình như luôn luôn mỉm cười với mẹ. Ở Dane thoát lên sự hân hoan và tự tin kết
hợp với sự nghiêm nghị của người lớn. Ãt có chuyện gì có thể làm cho nó giận dữ.
Dưới cái nhìn của Meggie có những lúc nó giống Ralph một cách đáng kinh ngạc nhưng
rất may không ai chú ý điều này. Ralph đã rời Gillanbone từ lâu. Justine rất
yêu em. Dane muốn gì Justine cũng chìu. Khi Dane mới biết đi chập chững,
Justine không rời em một bước. Thiếu mẹ, Justine và Dane càng gắn bó với nhau.
CHƯƠNG
32
Ngày
Giáng Sinh năm 1941, Hồng Kông thất thủ. Sau đó, tin quân Nhật đã đổ bộ lên Mã
Lai và Phi Luật Tân. Rồi ngày 8 tháng 7 năm 1942, quân Nhật vượt qua eo biển
Johore, đặt chân liên phía bắc Singabore và chiếm thành phố này không tốn một
viên đạn. Đến đây, thủ tướng Úc Curtin, bất chấp sự nổi giận của thủ tướng Anh
Churchill, đòi rút tất cả lực lượng của Úc ở Bắc châu Phi về nước. Ông tuyên bố
đã đến lúc nước Úc cần những đứa con của mình để bảo vệ quê hương. Tin này mang
lại cho Fiona hy vọng sớm gặp lại hai đứa con trai út của bà. Nhưng thật không
may, tình hình ở Bắc Phi bỗng xấu đi, cuối cùng sư đoàn của Úc bị kẹt lại không
thể rút ngay. Điều bất ngờ là với một lực lượng huấn luyện chưa tốt, trang bị
thiếu thốn, nhưng sư đoàn 9 Úc đã hai lần đối đầu thành công trước lực lượng
hùng hổ của Rommel. Cuối năm 1942, sư đoàn 9 Úc được gọi về, chuẩn bị sang Tân
Guinee đối đầu với bọn Nhật. Jims và Patsy trở về nước bình yên. Dĩ nhiên là
hai anh em được phép về thăm Drogheda. Bob ra ga đón Jims và Patsy. Khi chiếc
xe Rolls tiến vào trong sân nhà thì mọi phụ nữ trong trang trại đều có mặt,
Jack và Hughie đứng hơi tụt đằng sau. Hôm nay là ngày lễ, dù cho tất cả cừu ở
Drogheda ngã lăn ra chết cũng mặc kệ. Xe đã dừng lại rồi nhưng vẫn không có một
ai nhúc nhích, đến khi hai anh em song sinh từ trên xe bước xuống mọi người vẫn
đứng yên. Hai năm sống trên sa mạc đã thay đổi hẳn Jims và Patsy. Cả hai cao
hơn các anh một cái đầu, không còn là những chàng trai vị thành niên nữa, Jims
và Patsy đã trở thành những người đàn ông; nhưng là những người đàn ông không
giống cái kiểu Bob, Jack và Hughie. Thử thách về nhiều mặt, hưng phấn của chiến
trường, với những cái chết bi thảm được chứng kiến đã biến Jims và Patsy thành
những con người mà Drogheda không thể nào tạo nên được. – Con trai của mẹ! Các
con trai của mẹ! Bà Fiona gọi to lên, mặt đầy nước mắt chạy đến ôm hai con. Bất
cần chúng đã làm gì, chúng đã thay đổi đến đâu, chúng vẫn là những đứa con nhỏ
bé mà bà đã tắm rửa, thay tã, đút ăn, mà bà đã dỗ dành khi chúng khóc, ôm ấp
khi chúng về nhà mang những thương tích. Nhưng những thương tích hằn lên chúng
bây giờ đã vượt khỏi khả năng chăm sóc của bà. Drogheda đã mở tiệc khoản đãi
Jims và Patsy. Có điều rất lạ là cả hai rất thích kể chuyện hàng giờ về Bắc
Phi, về cách ăn ở những nơi mà chúng đã đặt chân đến, về viện bảo tàng ở Cairo,
về
cuộc
sống trong quân ngũ nhưng tuyệt đối không đề cập đến những trận đánh nhau. Bất
đắc dĩ cả hai mới trả lời qua loa về những trận ác liệt diễn ra tại Gazala,
Benghazi, Tobruk, El Alamein. Các bà các cô quây quanh hai người anh hùng của
dòng họ Cleary nhưng cả hai đều tìm cách lẩn trốn, sợ hãi hơn cả khi ra trận.
Meggie rất vui thấy Jims và Patsy đùa chơi hàng giờ với Dane. Còn Justine,
chúng tỏ ra rụt rè và vụng về cũng như khi đối đầu với phái nữ nói chung. Jims
theo dõi chị mình đang nhìn âu yếm Dane. Thằng bé cười như pháo nổ vì Patsy
đang đùa với nó. – Chị đừng bao giờ để nó rời khỏi Drogheda. Jims nói thấp giọng.
Ở Drogheda, nó sẽ có một cuộc sống bình yên, không thể xảy ra điều gì bất hạnh
cho nó.
CHƯƠNG
33
Tổng
giám mục Ralph vội vã đi dọc dãy hành lang cao và lộng lẫy dường như không chú
ý đến những ánh mắt ngạc nhiên quay về hướng ông. Ralph xuất hiện đột ngột
trong phòng tiếp khách của Hồng Y và đứng sựng lại. Đức cha đang tiếp ông
Papee, đại sứ của chính phủ Ba Lan lưu vong đặt bên cạnh Tòa thánh. – Ồ, Ralph!
Có chuyện gì thế? – Xong rồi, Vittorio Mussolini đã bị lật đổ. – Lạy Chúa! Đức
Thánh cha đã hay tin chưa? – Chính con đã gọi điện đến Castel Gandolfo nhưng
trong chốc lát đài phát thanh sẽ loan tin. Con biết trước là nhờ một người bạn ở
tổng hành dinh Đức cho hay. Ông Papee đứng lên. – Con xin phép được kiếu từ, thưa
Đức cha. Con đại diện cho một chính phủ thù nghịch với nước Đức. Nếu Đức Thánh
cha không an toàn thì con cũng sẽ lâm vào tình cảnh ấy. Con cần phải thu xếp gấp
các tài liệu trong văn phòng của con. Ăn nói thận trọng, lời lẽ chính xác, đúng
là một nhà ngoại giao từ đầu đến chân, Papee chào hai vị chức sắc của tòa thánh
rồi ra về. – Có phải ông ấy đã đến đây để yêu cầu chúng ta can thiệp cho nhân
dân Ba Lan đang bị người Đức đàn áp? – Vâng, thật tội nghiệp. Ông ấy rất lo cho
đất nước. – Còn chúng ta? Chúng ta có chút lo lắng gì dành cho đất nước Ba Lan
khốn khổ ấy không? – Dĩ nhiên là có, Ralph ạ! Nhưng ông ấy không hiểu rằng tình
hình gay go như thế nào. – Đó là sự thật nhưng không ai chịu tin như thế. –
Ralph! – Có đúng như thế này không! Thời niên thiếu Đức Thánh cha đã trải qua
những năm tháng tại Munich và Người đã có một sự say mê đặc biệt dành cho người
Đức! Đức Thánh cha đã tiếp tục yêu người Đức dù có xảy ra bất cứ chuyện gì.
Ngay cả khi bằng chứng về sự ô nhục do các người bạn của nước Đức gây ra được
phơi bày trên những thân thể đáng thương vì bị họ hành hạ, cắt xẻo thì Đức
Thánh cha cũng có thể tuyên bố đó là tác phẩm của người Nga; chứ một dân tộc có
văn hóa và văn minh đến mức ấy không thể có những hành động khủng khiếp như thế.
–
Ralph, chỉ có một lời tố giác của chúng ta về những gì xảy ra ở Ba Lan là Adolf
Hitler sẽ đè bẹp chúng ta ngay – Sự can thiệp của ta sẽ mang lại lợi lộc gì hở
ông bạn? Chúng ta không có quân đội. Các cuộc trả thù sẽ diễn ra tức khắc và Đức
Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, đó là điều mà Đức Thánh cha lo ngại. Ông bạn có
nhớ Giáo hoàng bù nhìn ở Avignon cách đây vài thế kỷ ông bạn có muốn thấy Giáo
hoàng của chúng ta bị biến thành bù nhìn ở Berlin? – Con rất buồn, Vittorio ạ.
Nhưng con không nhìn các sự kiện dước góc cạnh ấy. Con cho rằng chúng ta phải tố
giác các thủ đoạn của Hitler trước thế giới, công bố những hành động dã man,
hét to lên cho mọi người biết! Nếu hắn xử bắn chúng ta, chúng ta sẽ chết như những
người tử vì đạo và sự hy sinh của chúng ta càng có kết quả. – Ông bạn Ralph
thân mến, nên tỏ ra sáng suốt hơn một chút! Không có vần đề xử bắn chúng ta.
Hitler cũng thừa hiểu rằng sẽ không chính trị chút nào nếu biến chúng ta thành
những người tử vì đạo. Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, còn chúng ta sẽ được
bí mật đưa đi Ba Lan. Đi Ba Lan, Ralph! ông bạn có muốn chết ở Ba Lan không? Điều
đó có ích gì so với việc tiếp tục ở lại đây hiện nay? Tổng giám mục De
Bricassart ngồi xuống, hai bàn tay siết chặt nhau đặt trên đầu gối, ném một tia
nhìn tức giận ra hướng cửa sổ. Phía ngoài những con chim bồ câu bay qua bay lại
dưới ánh nắng màu vàng rực rỡ của trời chiều. Vào tuổi bốn mươi bảy, Ralph vẫn
tráng kiện hơn lúc nào hết. – Ralph, chúng ta vẫn là chúng ta, vẫn là những con
người, nhưng đó là thứ yếu. Trước hết, chúng ta là những tu sĩ. – Đức cha đã
không sắp xếp một thứ tự ưu tiên như thế trước đây khi con trở lại Úc. – Thời kỳ
ấy, cha đứng trên bình diện khác và con dư biết điều ấy. Con có đầu óc thích chống
chế! Trong tình hình hiện nay, không thể nào suy nghĩ với tư cách con người,
chúng ta phải suy nghĩ với tư cách tu sĩ vì rằng đó là mặt chính của cuộc sống
chúng ta. Dù cho chúng ta có suy nghĩ gì và dù chúng ta có muốn hành động như
thế nào với tư cách con người chúng ta vẫn buộc phải trung thành với Giáo hội
chứ không phải với một quyền hành thế tục! Chúng ta buộc phải trung thành duy
nhất với Giáo hội! Con đã có lời khấn phục tùng, Ralph. Hay con lại định vi phạm
lần nữa? Đức Thánh cha không thể sai lầm khi hành động vì quyền lợi của Giáo hội.
– Đức Thánh cha đã sai lầm! Sự đánh giá của Người có thiên vị. Đức Thánh cha đã
tập trung tất cả sức lực cho cuộc đấu tranh chống cộng sản. Đức Thánh cha coi nước
Đức như là đối thủ có tầm cỡ nhất để chống lại chủ thuyết ấy; và Người đã nhìn
nước Đức như cường quốc duy nhất có
khả
năng ngăn chặn ảnh hưởng cộng sản đối với phương Tây. Đức Thánh cha mong muốn
Hitler ngồi vững trong địa vị của hắn, cũng như Đức Thánh cha hài lòng khi nhìn
thấy Mussolini ngự trị ở Ã. – Hãy tin cha, Ralph à, còn nhiều điều con không biết
hết. Là Giáo hoàng, Đức Thánh cha không thể sai lầm. Nếu con hoài nghi thì coi
như con đã từ bỏ đức tin của mình rồi đó. Tối hôm ấy, Tổng giám mục De Bricassart
cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Theo ông, Giáo hội không có hành động cụ thể
nào khả dĩ đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh; vai trò của riêng ông thì giới
hạn trong việc can thiệp nhằm cứu vài bức tượng và tác phẩm nghệ thuật; do đó
Ralph oán ghét sự an phận của Vatican. Mặc dù Ralph có phần nào bảo thủ nhưng sự
dè vặt và nhút nhát quá mức của các chức sắc cao cấp bên cạnh Giáo hoàng vẫn
gây cho ông một sự bực bội nặng nề.
CHƯƠNG
34
Tổng
giám mục De Bricassart đi xuống ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh
Pierre, ngả mà trước đó ông đã đi vào. Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển,
ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc
đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ của Michel Ange. Nhưng ở dưới gương mặt bất động
ấy có một gương mặt khác, không phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi
bật giữa bóng đêm như một chiếc đầu lâu. Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng tiếng
Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì linh bộ
binh Đức. – Wie geht” s – ông hỏi vẫn với nụ cười. Người lạ mặt hơi giật mình,
bước ra khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi. – Du
bist brank? Tổng giám mục lại hỏi anh thanh niên có phải bị bệnh không? Có tiếng
trả lời: – Nein (không). Tổng giám mục De Bricassart đặt cây đèn pin xuống đất
và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên để nhìn rõ đôi mắt
u buồn của anh tạ – Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng Đức. – Con đến để cầu nguyện,
anh thanh niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng. – Thế thì
chuyện gì đã xảy ra? Có phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa? – Vâng,
nhưng không phải điều đó làm con lo. Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên. – Dù
sao anh cũng không thể ở ngoài này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình
cờ tôi đến đây cũng để cầu nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một
ngày thật gay go. Đi ngõ này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không
hiểu lầm rằng tôi đã bị bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ
không phải anh hộ tống tôi. Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người thanh niên vào một
phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị. Ông chỉ bật sáng một bóng đèn nhỏ và
đóng cửa lại. Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức nhìn thấy một người đàn ông cao
lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng
thỏng trong bộ quân phục mà cả
châu
Âu đã bắt đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi.
Chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài. – Anh ngồi
xuống đi, ông vừa nói vừa đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng
Marsala. Tổng giám mục rót rượu vào hai ly, trao cho anh thanh niên một, rồi
ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế có thể quan sát thoải mái nét mặt
có sức thu hút của người khách. – Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải động viên cả
những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân. – Con không biết, cậu trai
trả lời. Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.
– Con tên gì? – Rainer Moerling Hartheim, anh thanh niên trả lời không giấu vẻ
tự hào. – Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị tu sĩ nhận xét nghiêm trang. – Thưa,
đẹp thật sự phải không? Chính con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi
con là Rainer Schmidt nhưng khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một
cái tên mà con vẫn ao ước. – Cha mẹ con đều mất? – Các dì phước gọi con là đứa
con của tình yêu. Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai tỏ ra có phẩm cách và tự
tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt. Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ
hãi điều gì? – Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ hãi, Rainer? Anh lính trẻ hớp một
ngụm rượu, rồi ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng. – Ngon tuyệt. Rượu rất dịu.
Con muốn được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc
đến luôn và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng.
Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã thất
vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của Chúa;
trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện diện của
Chúa. Tổng giám mục cười. – Ta hiểu con muốn nói gì – Nhưng Giáo đường Thánh
Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường Thánh Pierre là
Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để tập cho mình
quen với suy nghĩ đó. – Con muốn cầu nguyện hai điều.
–
Về những điều làm con sợ hãi? – Dạ. Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con được ở
trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con. – Nhưng điều gì làm cho con sợ
hãi, Rainer? – Người ta đã phát hiện con là người Do Thái và đơn vị của con rồi
sẽ bị gởi sang mặt trận Nga. – Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự sợ hãi của
con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái? – Đức cha cứ
nhìn con! Cậu con trai trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi
làm lý lịch của con, họ có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có
khả năng làm việc đó hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất
nhiều so với những điều các dì nói với con. – Con hãy nói cho ta biết về con,
Rainer. Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên một nét tự hào lạ lùng. – Con là
người Đức và công giáo. Con mong muốn nước Đức trở thành một nước mà các vấn đề
chủng tộc và tôn giáo không đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc
đời con cho mục đích ấy… nếu con còn sống. – Ta sẽ cầu nguyện cho con… để
cho con vẫn sống và đạt mục đích đời con. Hai người nói chuyện với nhau đến khi
bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc của
cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ. … Ngày 5 tháng 9 năm
1943, sư đoàn 9 của Úc đổ bộ lên đảo New Guinea. Mười lăm ngày sau, nơi sư đoàn
này đến đóng – phía đông đảo thuộc vùng Lae – không còn một tên lính Nhật. Jims
và Patsy dạo chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogeda. – Chúng
mình sắp sửa được về nhà, Patsy. Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở
về Drogheda, anh sốt ruột quá. Jims xúc động nói. – Đúng vậy, Patsy đáp lại. Cười
vui, Patsy chạy rượt đuổi theo một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như
thể anh tin chắc rằng mình sẽ túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười. Patsy chạy
được khoảng hai mươi mét thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ
xung quanh. Jims nhìn thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từ
ngang bụng xuống đầu gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsy. – Patsy!
Patsy! Jims hét lên.
Anh
cảm thấy như chính da thịt mình đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình
đang hấp hối và sắp chết. Anh vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng
của người lính kịp ngăn anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một
tràng đạn thứ hai nổ dòn. – Patsy! Patsy! Có sao không? Jims hỏi to một cách ngớ
ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu. Thế mà, ngoài sự chờ đợi
của Jims, vọng lại một tiếng trả lời khẽ. – Không sao. Từng phân một, Jims trườn
trên cỏ, hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh,
tiếng gió và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em
mình, anh ngả đầu lên vai trần của Patsy và khóc. – Ồ, anh đừng khóc, Patsy
nói. Em có chết đâu! Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu xuống để lộ da thịt bị
nát, đỏ tươi và run rẩy. Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện và vây quanh, kể cả
những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo vệ ống quyển. Một người
chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập tắt họng súng máy đặt
bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra đầy phẫn nộ vì mọi người
đều yêu thương Patsy. – Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói với Jims. Cậu ta hứng
ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng đùi. Theo xét đoán của
tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng ********* cũng thế… Chỉ có… – Sao? Jims sốt
ruột hỏi, người run lên, môi tím lại vì mím chặt. – Bây giờ thì hơi quá sớm để
kết luận. Tôi không phải là một nhà giải phẫu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở
Moresby. Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống ********* đã bị tổn
thương cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng
có thể lành lặn tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa.
Điều mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ
phận sinh dục. Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn nước mắt. – Cái chính là
Patsy vẫn còn sống, anh nói. Tại cảng Moresby, sự đánh giá của viên y sĩ sư
đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.
–
Chẳng quan trọng gì – Patsy nằm trên băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được
đưa lên máy bay về Sydney – Dù sự thể có thế nào, thật ra em cũng không thích
các cô gái . Anh ở lại nhớ thận trọng hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải
xa anh. – Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận – Jims nói cho Patsy yên tâm và siết
bàn tay của em mình – Em có biết không tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn
thân chí cốt thì… Anh sẽ viết thư kể cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em
hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được
may mắn sớm trở về Drogheda. Fiona và bà Smith đến Sydney bằng máy bay để kịp
đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn bà Smith phải
thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ Wales. Patsy tiếp tục
chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội của anh đến đây coi
như chấm dứt. Khi Patsy được phép rời quân y viện, Meggie lái chiếc Rolls đến rước.
Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ
gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho họ một đặc ân khác: sự trở về của
Jims.
CHƯƠNG
35
hải
chờ đến khi đại diện của Hoàng đế Hiro Hito chính thức ký tên đầu hàng thì
Gillanbone mới tin chắc chiến tranh đã chấm dứt. Tin vui ấy lan truyền trong
ngày chủ nhật 2 tháng 9 năm 1945, đúng sáu năm sau ngày chiến tranh bùng nổ.
Sáu năm đầy lo âu, có quá nhiều sự mất mát: Rory, con trai của Dominic O”
Rourke; John, con trai của Horry Hopeton; Cormac, con trai của Eden Carmichael.
Đứa con trai út của Ross Mac Queen, Angus, vĩnh viễn không đi được nữa; David;
con trai của Anthony King, thì vẫn đi được nhưng không thấy được nó đi đâu;
Patsy, con trai của Pađy Cleary sẽ không bao giờ có được con. Và còn những người
mà các vết thương không lộ ra nhưng mãi mãi ăn sâu; đó là những người ra đi vui
vẻ; hăng hái, hay cười đùa nhưng lặng lẽ trở về, ít nói và nụ cười bỗng nhiên
hiếm hoi. Vào cái lúc vừa tuyên chiến, có ai lại nghĩ rằng cuộc xung đột lại
kéo dài lâu đến thế và phải trả một cái giá như thế? … Bob, Jack, Hughie và
Patsy trở lại các bãi chăn và lập ra kế hoạch phục hồi đàn súc vật. Meggie biết
rằng cuộc sống vất vả trên lưng ngựa sắp chấm dứt vì không bao lâu nữa Jims sẽ
trở về và có nhiều người đàn ông đến xin việc. Một thời gian sau, Meggie nhận được
một lá thư nữa của Luke, lá thứ hai từ khi nàng bỏ Luke. Bức thư viết: Không
còn bao lâu nữa, anh tin như vậy. Chỉ một vài năm chặt mía là anh sẽ đạt mục
đích. Sau này anh thường đau ở vùng thắt lưng nhưng anh vẫn còn đủ khả năng thi
tài với những tay chặt mía giỏi nhất, từ tám đến chín tấn. Arne và anh có mười
hai ê-kíp khác làm việc; tất cả đều là những người dũng cảm. Tiền lưu thông dễ
dàng hơn, châu Âu cần đường, chúng ta sản xuất bao nhiêu hết bấy nhiêu. Anh làm
được hơn năm ngàn bảng mỗi năm và anh đã để dành gần hết. Không còn bao lâu nữa,
Meggie, anh sẽ đi Kynuna. Biết đâu khi anh chuẩn bị đủ mọi thứ, em lại muốn trở
lại với anh. Có phải là anh đã mang lại cho em thằng bé mà em mong muốn không?
Đàn bà thật kỳ lạ, chỉ thích con trai. Có phải chỉ vì thế mà chúng ta xa nhau?
Cho anh biết bây giờ em ra sao và Drogheda đã chống lại hạn hán như thế nào.
Chúc em mọi sự tốt đẹp. Luke. Fiona bước ra hiên, nơi Meggie đang ngồi, tay còn
cầm lá thư, mắt nhìn lơ đãng những bãi cỏ màu xanh tươi mát. – Luke thế nào? –
Vẫn thế, thưa mẹ. Không một chút thay đổi. Lại chỉ cần một thời gian chặt mấy
cây mía quái quỷ rồi một ngày nào đó anh ấy sẽ mua trang trại gần Kynuna. P
–
Con có định tìm gặp lại Luke? – Không bao giờ. Fiona buông người xuống chiếc ghế
bành bằng mây được đặt xích lại để có thể nhìn rõ mặt con gái. – Meggie, tại
sao con không ly dị để lập gia đình thêm lần nữa? Đột ngột Fiona hỏi. Enoch
Davies sẵn sàng cưới con ngay; không có một phụ nữ nào thu hút được sự chú ý của
Davies ngoài con. Meggie nhìn mẹ kinh ngạc: – Lạy Chúa, con có cảm tưởng như mẹ
nói chuyện với con một cách… ngang ngửa như thể mẹ nói chuyện với một người
đàn bà nào khác cùng trang lứa. Fiona không cười. Bà rất ít khi cười. – Này
nhé, nếu bây giờ con không là một người đàn bà thì mãi mãi con sẽ không trở
thành đàn bà được. Về phần mẹ, mẹ nghĩ con có đủ điều kiện. Rồi đây mẹ sẽ già
đi và mẹ thèm được nói chuyện với con. Meggie cười, vui sướng thấy mẹ mình ở
trong một tân trạng như vậy. – Mưa xuống mẹ ạ. Ồ, thật tuyệt khi nhìn thấy cỏ ở
Drogheda lại xanh tươi. – Đúng rồi. Nhưng con lẩn tránh câu hỏi của mẹ. Tại sao
con không ly dị và bước thêm một bước nữa? – Như thế là đi ngược lại luật của
Giáo hội. – Thật là chuyện không vào đâu cả! Fiona nói lớn. Một nửa con là của
mẹ nhưng mẹ không phải là người công giáo. Con đừng nói những chuyện vớ vẩn với
mẹ. Meggie à. Nếu quả thật muốn lấy chồng lần nữa thì con đã ly dị với Luke rồi.
– Thưa mẹ đúng thế, rất có thể. Nhưng con không muốn lại lập gia đình, hai đứa
nhỏ và Drogheda đã đủ mang lại hạnh phúc cho con rồi. Đúng lúc đó Justine và
Dane xuất hiện. Justine cao và gầy, không đẹp nhưng chỉ cần một lần gặp mặt
thôi cũng đã khó quên đôi mắt và tính tình cô bé ấy. Justine đã tám tuổi và người
duy nhất thật sự gần gũi với Justine là Dane. – Dane và Justine rất khác nhau mẹ
à, thế mà lại rất hợp nhau, Meggie nhận xét. Con ngạc nhiên về điều ấy. Hình như
chưa bao giờ con thấy hai đứa gây gổ và đôi khi con phải tự hỏi làm thế nào mà
Dane lại có thể tránh được những lần cãi vã với một đứa bướng bỉnh như Justinẹ
Thế nhưng Fiona lại suy nghĩ khác về Dane:
–
Lạy Chúa, đúng là gương mặt của cha nó cắt sang. Vừa nói bà vừa quan sát Dane,
cậu bé đang chui vào vòm lá non um tùm của những cây hồ tiêu, rồi sau đó mất dạng.
Dường như có một luồng khi lạnh đột ngột đến với Meggie, nàng không kịp phản ứng
trước những nhận xét của Fiona dù rằng nàng đã nghe lặp đi lặp lại câu nói này
cả trăm lần suốt những năm qua. Tất nhiên đó là phản ứng mặc cảm tội lỗi. Nhiều
người vẫn nói xa nói gần nhưng thế thì đã sao đâu? Giữa Luke và Ralph cũng có
những nét giống nhau kia mà. Tuy nhiên, dù cố che giấu thế nào đi nữa, Meggie vẫn
không giữ được tự nhiên mỗi khi có ai đó nói về sự giống nhau giữa Dane và cha
nó. Nàng hít một hơi thật sâu rồi tỏ ra tự nhiên: – Mẹ cũng thấy thế? Nàng hỏi
lại, một chân đong đưa có vẻ lơ đễnh. Con thấy chẳng giống bao nhiêu. Dane
không có nét gì của Luke kể cả tính tình lẫn vóc dáng. Fiona cười mũi – một phần
vì tuổi tác phần khác đôi mắt của Fiona như mờ đi do ảnh hưởng vởi chứng vẩy cá
– nhưng trong cái nhìn hình như có chút gì trêu cợt khiến cho Meggie lúng túng.
– Con tưởng là mẹ ngu đần lắm sao? Mẹ đâu có bảo Dane giống Luke. Mẹ thấy Dane
giống Ralph. Cảm giác nặng trĩu. Đôi chân của Meggie đang đong đưa bỗng nhiên
như bị một khối chì kéo xuống và rơi trên nền gạch ô vuông. Người của nàng cũng
như thể bị nén lại thành khối, sức nặng ngàn cân cột chặt. Hãy đập đi chứ trái
tim của ta, Chúa ơi! Hãy tiếp tục đập! Vì con trai ta, mi hãy tiếp tục đập đi.
– Nhưng, mẹ à! Meggie chỉ mấp máy được một hai tiếng, bằng thứ âm thanh thật nặng
nề. Nhưng, mẹ à, mẹ nói thật là kỳ quặc! Sao mẹ lại nhắc đến tên Ralph vào đây?
– Con quen tất cả mấy người mang cái tên ấy đâu? Luke chưa bao giờ có con trai
với con. Dane là con của Ralph. Mẹ đã biết điều đó ngay giây phút đầu tiên Dane
chào đời. – Thế thì… tại sao lâu nay mẹ vẫn không nói gì hết? Tại sao mẹ chờ
cho Dane được bảy tuổi mới kết án con một cách vô lý và hoàn toàn thiếu chứng cớ
như vậy? Fiona duỗi thẳng người, đặt hai bàn chân tréo vào nhau. – Bây giờ mẹ
đã già rồi, Meggie ạ, và những điều mẹ nghĩ nay cũng làm cho mẹ đau lòng. Tuổi
già đúng là một ân huệ! Mẹ sung sướng được thấy Drogheda hồi sinh. Có lẽ vì thế
mà mẹ cảm thấy mạnh khỏe hơn. Lần đầu tiên trong nhiều năm, mẹ muốn được nói
chuyện…
–
Đúng là khi mẹ quyết định nói điều gì đó mẹ có cả một nghệ thuật để chọn lựa đề
tài! Meggie nói bằng một giọng run run gần như tuyệt vọng mà vẫn chưa biết Fiona
sẽ đưa câu chuyện đến đâu, tra tấn tinh thần hay sẽ thương hại mình? Có vẻ như
tình cờ, bàn tay Fiona đưa lên rồi đặt nhẹ xuống đầu gối của Meggie. Bà mỉm cười
– không hề tỏ ra chua cay hay khinh bỉ mà với một sự cảm thông kỳ lạ. – Con
không nên nói dối với mẹ, Meggie ạ! Con có thể nói dối với bất cứ ai, nhưng
không nên làm như thế với mẹ. Con không có cách nào để thuyết phục được mẹ tin
rằng Luke là cha của Dane. Mẹ không ngu đâu, mẹ có mắt. Rõ ràng không thể tìm
thấy một nét nào của Luke ở thằng bé ấy. Không có gì cả vì làm sao có được khi
Dane chính là hình ảnh của Ralph. Con nhìn xem, hai bàn tay, mớ tóc với những lọn
quăn rơi xuống trán, hình dáng, gương mặt, chân mày, cái miệng nữa. Ngay cả
dáng đi cũng thế. Ralph chớ còn ai vào đây. Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời
nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ
nhàng và dễ chịu. – Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiÃ; t&ªu kỳ. Theo
con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có quá lộ liễu và mọi người
đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ? – Dĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết.
Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính
tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Luke. Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt
trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một
ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với
con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật
lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội
so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu
Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn
trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ
yếu. Thật là ngu ngốc! Cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi
theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra. Ngừng một lát,
Fiona nói tiếp: – Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn
phối cho con với Luke? Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ
không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước
khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghé lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây
nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông
ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định
lấy
Luke. Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây
phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con
chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn
bó của ông ta với con là trong sáng thật sự, nhưng rõ ràng là ông ta cần con.
Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào, trước đây cũng như
sau này. Lạ thật – Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm – có lúc mẹ
tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít
nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng
cho đến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con
gái. Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim
nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggie. – Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con
điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó
con không ngớt làm ông ấy say mê. Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy
con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được
ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ
còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tìm con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy
không Meggie? Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh
Dane. Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở
lại với Luke nữa. – Dạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài – Ralph
đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ
không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều
duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Dane. – Mẹ có cảm
tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ
đã từng nói những lời giống hệt như thế. – Về chuyện của anh Frank? Chiếc ghế
bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh;
cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm: – Có phải con định
trả đũa mẹ, Meggie? Con đã biết chuyện đó từ bao giờ? – Từ khi… còn nhỏ. Từ
ngày Frank bỏ nhà ra đi! Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng: – Con che mắt thế
gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm
một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ
đâu.
Con
sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một
cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà
mẹ vô cùng… Con sẽ thấy… Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane. – Con có cách giữ
Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba.
Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc
chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn. Mùa mưa đến rồi lại qua đi,
nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với
nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại
vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra
mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn. Ở
tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu. Sống xa
không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau.
Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney.
Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con
lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm
khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức
mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả
những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và
Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính
đôi cánh của chúng nó. Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc
sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần
về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì
nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô. Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn
đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo
hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph
de Bricassart: Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ
khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII
phong Hồng Y De Bricassart. Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời
gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc
đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang
Vatican.
Sinh
ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai
kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart,
dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu
viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh
mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền
của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra. Tháng sáu năm 1920, Ngài được
đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ
tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục
Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng
giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng
giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp
thành công nổi bật tại La Mã. Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ
Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm
trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm
1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không
ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những
nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội. Đặc phái viên
báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo
dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone.
Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu
giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng
thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng
tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã
có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng
Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi. Hồng Y De
Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với
chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những
trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở
Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt
cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công
giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài
cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người
thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực
và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời
khỏi nơi đây trên hai
mươi
năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu
vắng không có gì có thể bù đắp được. Trong chiến tranh, Tổng giám mục De
Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì
lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert
Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với
nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải
chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm
sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được
chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập
cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y,
có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó
không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền
nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình. Meggie trả lại
tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã: – Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói
điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? –
Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên
văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn
nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của
mẹ giữa các dòng chữ. – Người đó trước hết là ông ấy… nếu ông ấy đọc bài báo.
– Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở
dài. – Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp được thời giờ để trực tiếp quản
lý Drogheda. Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng ta. Làm sao quên được? – Đúng
thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi
làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông
cừu đÃ9;n £ có một món lợi trên bốn triệu bảng! – Con không nên bạc bẽo, vô ơn
như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và
có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng
quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa
chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục
ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có
dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện nay.
Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn
bảng. Con nên biết ơn ông ấy.
–
Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và
con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong
cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng
Y De Bricassart. – Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggie? – Cũng chẳng sao,
Meggie đáp lại hơi làm dáng. – Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với
một vẻ bí ẩn. … Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín
đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin
mà ông tự lái, khởi hành từ Sydney. Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông
tại Úc, và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Y.
Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và
cũng chẳng có ai tiếp đón. Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận
trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của
cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng. Mùa thu đã trở lại ở đây, từ
hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nở rộ. Ở đâu
cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đọng trong
động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Y. Giữa những dây đậu tía còn
xanh có những cành hồng mềm mại vươn lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo
hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng
lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần
hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng
xám nhạt. Hồng tro? Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng
các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggie. Ông nghe tiếng cười của Meggie
và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy.
Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí. Nàng đang đứng
đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một
chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏa ngát lẫn cái cười rạng rỡ.
Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ
đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã.
Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggie. Thằng bé khoảng mười một, mười hai
tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần, chân không, da sạm nắng, vai rộng,
một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành lọn, màu vàng nhạt như cỏ của
Drogheda. Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh lên một màu xanh biếc.
Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.
–
Chào ông, thằng bé vừa nhìn khách vừa cười. – Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị
ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút. – Cháu tên gì? – Dane O” Neill,
thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai? – Tôi tên Ralph… Dane O” Neill. Như
thế thằng bé là con của Meggie. Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với
anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước
đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy
ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể
là con của ông. Thật là phi lý, Hồng Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với
Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết
Drogheda, kể cả Meggie Cleary. – Ba của cháu có nhà không, Dane? – Ba cháu? Thằng
bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở
nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây. – Ồ, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở
nhà không? – Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu
ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về
ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không
muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu. Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng,
quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc,
nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane O” Neill quỳ gối, nắm lấy bàn
tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn. – Cháu
hãy đứng lên, Dane. Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là
người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu. Bỗng có tiếng gọi vang lên. – Dane,
Dane, em ở đâu? Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ
cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggie. – Ồ, chào ông. Xin lỗi
ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine O” Neill. – Jussy, đây là Hồng
Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justine. Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài
nhanh lên!
–
Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẩn, – cô bé nói không
cần hạ thấp giọng – Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh.
Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy
ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông
Gordon. – Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị
hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút. – Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em,
và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao
chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người
nào đó bị bệnh cúm. – Hôn lên nhẫn tôi là vô ích, Justine. Tôi đến đây để nghỉ
hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Y. – Ông có cần ch